1. Khái niệm dự án và dạy học theo dự án
a) Khái niệm dự án
Thuật ngữ dự án trong tiếng Anh là “Project”, có nguồn gốc từ tiếng La tinh và ngày nay được
hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch. Khái niệm dự án được sử
dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế-xã hội: trong sản xuất, doanh nghiệp, trong
nghiên cứu khoa học cũng như trong quản lý xã hội.
Dự án là một dự định, một kế hoạch cần được thực hiện trong điềukiện thời gian, phương tiện
tài chính, nhân l ực, vật lực xác định nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Dự án có tính phức hợp,
tổng thể, được thực hiện trong hình thức tổ chức dự án chuyên biệt
8 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2584 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy học theo dự án - TS. Lưu Thu Thủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tiễn đời sống. Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề
phù hợp với trình độ và khả năng của người học.
- Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: Các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với
thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lý tưởng, việc thực hiện các dự án có thể
mang lại những tác động xã hội tích cực.
- Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với
khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển
trong quá trình thực hiện dự án.
- Tính phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác
nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
- Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý
thuyết và vận dung lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra,
củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực
tiễn của người học.
- Tính tự lực cao của người học: Trong DHDA, người học cần tham gia tích cực và tự lực vào
các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự
sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ
tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
- Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng
tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. DHDA đòi hỏi và rèn
luyện tính sẵn sàng và kỹ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV
cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học
tập mang tính xã hội.
- Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra. Sản phẩm
của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án
học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này
có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
3. Mục tiêu của dạy học theo dự án
a). Tạo ra một sản phẩm (Ví dụ: Tổ chức buổi hòa nhạc cho người cao tuổi; Tổ chức giới thiệu
một thành tựu cải cách giáo dục; Tổ chức các sự kiện cho “Tuần lễ ẩm thực” của trường v.v).
b). Thực hành nghiên cứu (Ví dụ: Động vật và phân loại; Tác động của âm nhạc đối với bò sữa;
Dự án nghiên cứu về rác và cách giảm bớt rác trong nhà trường; Nghiên cứu và so sánh cây phả
hệ v.v).
c). Giải quyết một vấn đề (Ví dụ: Làm thế nào để các phụ huynh học sinh tham gia vào các hoạt
động của nhà trường; Tại sao loài khủng long lại biến mất; Video trong dạy học v.v).
4. Các dạng của dạy học theo dự án
DHDA có thể được phân loại theo nhiều phương diện khác nhau. Sau đây là một số cách phân
loại dạy học theo dự án:
a. Phân loại theo chuyên môn
- Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học.
- Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau.
- Dự án ngoài chuyên môn: Là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn học, ví dụ
dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường.
b. Phân loại theo sự tham gia của người học: dự án cho nhóm HS, dự án cá nhân. Dự án dành
cho nhóm HS là hình thức dự án dạy học chủ yếu. Trong trường phổ thông còn có dự án toàn
trường, dự án dành cho một khối lớp, dự án cho một lớp học.
c. Phân loại theo sự tham gia của GV: dự án dưới sự hướng dẫn của một GV, dự án với sự cộng
tác hướng dẫn của nhiều GV.
d. Phân loại theo quỹ thời gian: K.Frey đề nghị cách phân chia như sau:
- Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học;
- Dự án trung bình: dự án trong một hoặc một số ngày (“Ngày dự án”), nhưng giới hạn là
một tuần hoặc 40 giờ học;
- Dự án lớn: dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần (hay 40 giờ học), có
thể kéo dài nhiều tuần (“Tuần dự án”).
Cách phân chia theo thời gian này thường áp dụng ở trường phổ thông. Trong đào tạo đại
học, có thể quy định quỹ thời gian lớn hơn.
e. Phân loại theo nhiệm vụ: Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án, có thể phân loại các dự án
theo các dạng sau:
- Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng;
- Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá trình;
- Dự án thực hành (dự án kiến tạo sản phẩm): trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất
hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang
trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác;
- Dự án hỗn hợp: là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên.
Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Trong từng lĩnh vực chuyên môn có thể
phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng.
5. Tiến trình dạy học theo dự án
Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người ta có thể chia tiến trình của DHDA làm
nhiều giai đoạn khác nhau. Sau đây trình bày một cách phân chia các giai đoạn của dạy hoc theo
dự án theo 5 giai đoạn.
a. Xác định chủ đề và mục đích của dự án: GV và HS cùng nhau đề xuất ý tưởng, xác định
chủ đề và mục đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề, hoặc
đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống.
Cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. GV có thể giới thiệu
một số hướng đề tài để HS lựa chọn và cụ thể hoá. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến về
việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía HS. Giai đoạn này còn được mô tả thành hai giai
đoạn là đề xuất sáng kiến và thảo luận về sáng kiến.
b. Xây dựng kế hoạch thực hiện: trong giai đoạn này HS với sự hướng dẫn của GV xây
dựng đề cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần
xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành
và phân công công việc trong nhóm.
c. Thu thập thông tin: Học cách nhìn đúng chỗ với cái nhìn nhiều chiều (phỏng vấn nhân
chứng; quan sát; mạng Internet, thư viện, bảo tàng,…; Sách, tạp chí, phim ảnh,…; trao đổi thư
tín – các mối liên hệ với quốc tế,…).
d. Thực hiện dự án: các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm
và cá nhân. Trong giai đoạn này HS thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn, thực
hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Kiến thức lý thuyết, các phương
án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. Trong quá trình đó sản phẩm của dự án và
thông tin mới được tạo ra.
e. Trình bày sản phẩm dự án: kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu
hoạch, báo cáo, bài báo... Trong nhiều dự án các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động
thực hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng hạn việc
biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã hội. Sản phẩm của
dự án có thể được trình bày giữa các nhóm sinh viên, có thể được giới thiệu trong nhà trường,
hay ngoài xã hội.
f. Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh
nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. Kết
quả của dự án cũng có thể đuợc đánh giá từ bên ngoài.
Việc đánh giá sẽ gồm các mặt sau:
+ Nội dung (tiêu chí) – giá trị của sản phẩm là ở chỗ nào?
+ Rút ra được bài học gì? (kiến thức, kĩ năng, thái độ,…)
+ Làm việc tập thể như thế náo?
+ Sự thoải mái và tích cực tham gia ở mức độ nào?
+ Điều gì cần tiếp tục phát huy ở những lần sau?
+ Điều gì cần thay đổi? Những điểm nào cần được cải thiện?
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế chúng có thể
xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh cần được thực hiện trong tất cả các
giai đoạn của dự án. Với những dạng dự án khác nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù
hợp với nhiệm vụ dự án. Giai đoạn 4 và 5 cũng thường được mô tả chung thành một giai đoạn.
Khi đó tiến trình dự án có thể được mô tả theo 4 giai đoạn: xác định chủ đề và mục tiêu dự án;
lập kế hoạch; thực hiện; đánh giá dự án.
6. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo dự án
Ưu điểm
Các đặc điểm của DHDA đã thể hiện những ưu điểm của phương pháp dạy học này. Có thể tóm
tắt những ưu điểm cơ bản sau đây của dạy học theo dự án:
- Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội;
- Kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học;
- Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm;
- Phát triển khả năng sáng tạo;
- Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp;
- Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn;
- Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc;
- Phát triển năng lực đánh giá.
Học theo dự án có những ưu điểm nổi bật là: Tập trung vào một câu hỏi lớn hoặc một
vấn đề quan trọng; có thể bao gồm nhiều quan điểm liên quan tới nhiều bộ môn khác
nhau; là cơ hội đưa ra sáng kiến và thực hiện nhiều hoạt động khác nhau; dựa trên các
thông tin có thể tiếp cận được; đòi hỏi thực hiện trong một thời gian nhất định; phát huy
sự hợp tác.
Nhược điểm
- DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang tính hệ thống cũng như
rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản;
- DHDA đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy DHDA không thay thế cho PP thuyết trình và luyện
tập, mà là hình thức dạy học bổ sung cần thiết cho các PPDH truyền thống.
- DHDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp.
Tóm lại DHDA là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học hiện đại
như: định hướng vào người học, định hướng hành động, DH GQVĐ và quan điểm dạy học tích
hợp. DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội,
tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải
quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học.
File đính kèm:
- Day hoc theo du an.pdf