Báo cáo Cập nhật Tình hình Phát triển Kinh tế của Việt Nam năm 2008

MỤC LỤC

TÓM TẮT . i

Môi trường kinh tếtoàn cầu trởnên bất ổn hơn . 1

Áp lực âm ỉdo giá dầu và giá lương thực tăng . 2

Lạm phát tăng tốc. 3

Tác động xã hội của tình trạng giá cảtăng cao. 5

Nhập khẩu tăng vọt . 6

Tài khoản vãng lai tiếp tục thâm hụt. 8

Nguyên nhân tình trạng kinh tếquá nóng . 9

Các giải pháp chính sách và tình hình thực hiện . 11

Có hiệu quảhay không?. 12

Chính sách tỉgiá. 13

Giá tài sản sụt giảm. 15

Hoạt động Kinh tế: Mục tiêu và Dựbáo. 16

pdf26 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Cập nhật Tình hình Phát triển Kinh tế của Việt Nam năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CPI chứ không phải trên giá thành sản xuất. Tuy nhiên, ước tính này cho thấy rằng tiền đồng đã bị mất giá và đây không phải là động thái tích cực khi nền kinh tế đang phải đối mặt với tình trạng nhập siêu. Biểu đồ 11: Tỉ giá danh nghĩa và tỉ giá thực tế 85 90 95 100 105 110 115 120 Dec-06 Mar-07 Jun-07 Oct-07 Jan-08 Apr-08 Ch ỉ s ố (T 12 /2 00 6 = 10 0) Giỏ NT chuẩn Giỏ NT danh nghĩa Đôla danh nghĩa Nguồn: Ước tính của Ngân hàng Thế giới, dựa trên chỉ số lạm phát CPI và tỉ giá danh nghĩa cho Mỹ, khu vực EU và Nhật Bản, áp dụng các trọng số liên quan đến thương mại. Các quyết định chính sách được đưa ra cùng với nỗ lực bình ổn nền kinh tế bao gồm cả việc cho phép áp dụng tỉ giá linh hoạt hơn. Điều này sẽ giúp nền kinh tế có khả năng đối phó tốt hơn nếu như luồng vốn (chảy vào hay chảy ra) tăng lên. Ý định nới rộng biên độ tỉ giá lên ± 2 phần trăm đã được công bố. Tỉ giá linh hoạt hơn cũng sẽ giúp cho các doanh nghiệp, ngân hàng và hộ gia đình làm quen với ý niệm về rủi ro tỉ giá, khuyến khích họ giảm bớt rủi ro của mình. Chênh lệch tiền tệ là một nguồn gây bất ổn quan trọng trong những giai đoạn điều chỉnh. 15 Mức độ chênh lệch tiền tệ trong nền kinh tế Việt Nam còn ít được biết đến. Cán cân tiền tệ của cả nước thì tương đối cân bằng, vì giá trị danh nghĩa của nợ nước ngoài cũng tương đương với phần dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, Việt Nam là chủ nợ ròng nếu tính bằng giá trị hiện tại của nợ, do phần lớn các khoản vay từ nước ngoài là vay ưu đãi. Các ngân hàng thương mại là chủ nợ ròng về ngoại tệ, với phần tài sản ngoại tệ ròng lớn, trong khi nhiều doanh nghiệp (kể cả một số DNNN lớn) là con nợ ròng. Giá tài sản sụt giảm Việc thắt chặt tín dụng như một phần của gói giải pháp bình ổn đã có tác động đối với giá bất động sản. Những thông tin có được về thị trường địa ốc tương đối chắp vá, chủ yếu mang tính giai thoại. Tuy nhiên, các ý kiến đều đồng ý rằng giá cả đã giảm sút, và để bán một tài sản phải mất nhiều thời gian hơn. Thông tin về giá cổ phiếu rõ ràng hơn nhiều. Thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua thời kỳ bùng nổ trong khoảng thời gian từ 2006 đến tháng 3/2007. Vốn hóa ở Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HASTC) đạt gần 29 tỉ USD, hoặc trên 40% GDP, so với 1 tỉ USD tương đương 1,2% GDP vào năm 2005. Những yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng phải thận trọng trong việc cho vay đối với các công ty chứng khoán và nhà đầu tư chứng khoán đã làm thị trường nguội đi kể từ mùa hè 2007. Song chính sách thắt chặt tín dụng đã làm cho giá cả đột ngột đi xuống theo hình trôn ốc, điều này dường như không dựa trên những yếu tố căn bản. Tính đến tháng 6/2008, tổng vốn hóa của hai thị trường ước tính đạt khoảng 17% GDP, thấp hơn một nửa so với tháng 12/2007. Hay nói một cách khác, thị trường chứng khoán Việt Nam đã mất khoảng 16 tỉ USD giá thị trường tính từ đầu năm (Biểu đồ 12). Sự sụt giảm này một phần phản ánh sự điều chỉnh cần thiết sau một thời kỳ tăng trưởng phi lý. Song có lẽ nó đã đi quá xa nếu tính đến những nền tảng căn bản của thị trường. Tính đến cuối tháng 5/2008, hệ số P/E trung bình tại HOSE ước tính là 10; còn ở HASTC vào khoảng 6-7. Để làm thị trường nguội bớt, HOSE đã đột ngột thu hẹp biên độ giao dịch hàng ngày từ 5% xuống 1%. Ở HASTC biên độ giao dịch được thu hẹp từ 10% xuống còn 2%. Gần đây các biên độ này đã được nới lỏng hơn một chút, lên 2% và 3% tương ứng ở hai sàn. Động thái này tạm thời làm nhà đầu tư nhẹ nhõm hơn, nhưng cũng làm cho chứng khoán trở nên khó bán. Thị trường tài sản trầm lắng sẽ ảnh hưởng đến các NHCP đã cho vay rất mạnh để đầu tư tài chính và địa ốc. Các khoản vay chưa được thanh toán liên tục được chuyển hạn có thể cho ngân hàng có thời gian để đợi cho thị trường tài sản phục hồi trở lại. Nhưng với lãi suất tăng cao hơn, việc đảo nợ không thể kéo dài mãi. 16 Biểu đồ 12: Chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam 30 50 70 90 110 130 Jun-07 Aug-07 Oct-07 Dec-07 Feb-08 Apr-08 Jun-08 In de x (Ju ne 07 = 10 0) EMI S&P 500 VN Index Nguồn: HOSE tính cho Việt Nam, Morgan Stanley Capital International tính cho Chỉ số Thị trường mới nổi (EMI) và Standard and Poor cho chỉ số S&P500. Tình trạng này đòi hỏi phải có 2 loại biện pháp. Thứ nhất là quyết đoán hơn trong việc chuyển sang các hợp phần khác của gói chính sách bình ổn đã công bố hồi tháng Ba. Cho đến nay, các hành động mới chỉ tập trung vào chính sách tiền tệ. Các công bố đưa ra còn nhắc đến chính sách tài khóa, song việc cắt giảm chi tiêu vẫn chưa thực sự diễn ra. Việc thiếu vắng hoạt động điều chỉnh ngân sách đồng nghĩa với việc tất cả gánh nặng của nhiệm vụ bình ổn kinh tế được đặt lên khả năng tiếp cận tín dụng. Thứ hai, cần đảm bảo sự ổn định của khu vực tài chính và duy trì lòng tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, sự ổn định này vẫn được duy trì bằng cách đảm bảo cho các NHCP gặp khó khăn được tiếp cận với vốn khả dụng. Tuy nhiên, sớm hay muộn có lẽ cũng cần để cho một số NHCP yếu nhất bị thâu tóm bởi các ngân hàng mạnh hơn và có uy tín hơn. Một dấu hiệu đáng mừng là một số ngân hàng nước ngoài đã tăng tỉ lệ cổ phần trong các NHCP lên 15% theo hạn mức quy định. Hoạt động Kinh tế: Mục tiêu và Dự báo Triển vọng của nền kinh tế chắc chắn không thuận lợi bằng một năm trước đây. Chính phủ quyết tâm chống lạm phát và gói chính sách bình ổn sẽ dẫn đến tỉ lệ tăng trưởng thấp hơn so với dự báo đưa ra hồi đầu năm. Tuy nhiên, nền tảng kinh tế của Việt Nam vẫn mạnh và tăng trưởng GDP có thể sẽ nhanh phục hồi hơn so với mục tiêu chính thức. Trong quý I năm 2008, GDP tăng trưởng 7,4%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2007, song không nhiều (Bảng 6). Mặc dù dự báo quý I không phải là cơ sở để tính kết quả cho cả năm, song những động thái kinh tế trong và ngoài nước thời gian gần đây vẫn rất khả quan. 17 Bảng 6: Tăng trưởng GDP theo ngành 2006 2007 Q1-06 Q1-07 Q1-08 Tổng GDP 8,2 8,5 7,2 7,8 7,4 Nông, lâm, ngư nghiệp 3,4 3,4 2,1 2,6 2,9 Công nghiệp và xây dựng 10,4 10,6 8,5 9,1 8,1 Công nghiệp 10,2 10,2 8,7 9,3 9,0 Khai khoáng 0,8 -2,0 0,2 0,1 0,1 Chế tác 12,4 12,8 11,0 11,9 10,6 Xây dựng 11,1 12,0 8,1 7,9 3,3 Dịch vụ 8,3 8,7 7,4 8,0 8,1 Bán lẻ 8,6 8,7 7,7 7,7 7,5 Nguồn: TCTK. Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tăng trưởng 2,9% trong quý I năm 2008, mặc dù tình trạng bệnh dịch gia súc vẫn tiếp tục và thời tiết không thuận lợi, sau một mùa đông khắc nghiệt ở miền Bắc và miền Trung. Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có một vụ đông xuân bội thu, sản lượng lúa vượt trên 9,9 triệu tấn, tăng hơn nửa triệu tấn so với năm ngóai. Giá trị gia tăng từ nuôi trồng thủy sản tăng 7,6% do tổng sản lượng tăng 9,3%. Những kết quả này bù đắp cho sự sụt giảm trong ngành chăn nuôi gia súc và gia cầm, do ảnh hưởng của các cơn bùng phát dịch bệnh trong những tháng gần đây. Trong quý I, giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp tăng 9% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị gia tăng trong ngành khai khoáng chỉ tăng 0,1% do sản lượng dầu thô giảm và ngành chế tác cũng giảm sút. Trong lĩnh vực công nghiệp, doanh số của khu vực tư nhân trong nước tăng 22% trong khi của các doanh nghiệp nhà nước tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước trong bốn tháng đầu năm 2008. Khu vực tư nhân tiếp tục mở rộng và trở thành khu vực tạo công ăn việc làm chính ở Việt Nam. Ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất là ngành xây dựng, chỉ tăng trưởng 3,3% trong quý I, tỉ lệ thấp nhất trong nhiều năm. Khu vực dịch vụ với mức tăng trưởng mạnh trong 3 năm qua vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh trong quý đầu năm 2008 nhờ hoạt động hiệu quả của ngành du lịch, vận tải và dịch vụ tài chính. Xuất khẩu tăng 27,6% trong 4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước (Bảng 7). Kim ngạch xuất khẩu dầu thô tăng mạnh mặc dù năng lực sản xuất bị hạn chế, nhờ giá dầu trên thị trường thế giới tăng cao. Tính đến tháng Tư, khối lượng xuất khẩu dầu giảm 10,5% song kim ngạch xuất khẩu lại tăng 46,2%. Xuất khẩu các mặt hàng phi dầu lửa cũng bắt nhịp với xuất khẩu dầu lửa. Vượt ra khỏi phạm vi chi tiết theo từng ngành, “quán tính” thống kê cho thấy tăng trưởng trong năm 2008 vẫn mạnh kể cả khi đạt được chỉ tiêu tăng trưởng 7% cho từng quý còn lại của năm nay. Với mức tăng trưởng GDP 8,5% năm 2007 và vẫn còn ở mức 7,4% trong quý I năm 2008, sự giảm tốc có lẽ sẽ chậm lại so với chỉ tiêu chính thức đề ra. Kể cả khi tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng giảm xuống bằng 0 trong thời gian còn lại của 18 năm nay và các ngành khác hoạt động ở mức độ như quý I, GDP sẽ tiếp tục tăng trưởng ở quanh mức 7,5% trong năm 2008. Bảng 7: Cơ cấu và Tăng trưởng Xuất khẩu Tăng trưởng (phần trăm) Giá trị (triệu $) 2007 2006 2007 4M-06 4M-07 4M-08 Tổng thu nhập từ xuất khẩu 48.561 22,8 21,9 25,1 22,0 27,6 Dầu thô 8.488 12,1 2,4 15,6 -10,5 46,2 Mặt hàng phi dầu 40.074 25,9 27,1 28,0 31,2 23,9 Gạo 1.490 -9,3 16,8 -9,0 -7,3 72,7 Nông sản khác 4.696 42,0 31,3 34,4 49,7 6,0 Thủy hải sản 3.763 22,6 12,1 22,5 20,4 13,6 Than 1.000 36,6 9,3 47,8 23,4 28,0 May mặc 7.750 20,6 32,8 38,7 31,7 24,5 Da giày 3.994 18,2 11,2 21,4 11,0 15,7 Điện tử và máy tính 2.154 19,7 26,1 23,7 27,5 33,9 Thủ công mỹ nghệ 825 10,9 30,9 10,8 21,6 8,6 Sản phẩm gỗ 2.404 23,7 24,4 31,9 24,2 22,5 Khác 11.996 38,7 37,6 32,9 47,1 30,5 Nguồn: TCHQ và TCTK. Từ góc độ này, chi phí của việc giữ vững lập trường đối với lạm phát sẽ không lên quá cao trong thời gian trước mắt. Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp trong gói chính sách bình ổn của mình một cách hiệu quả mà không phải đối mặt với tình trạng tăng trưởng sụt giảm quá mạnh trong ngắn hạn. Phải thừa nhận rằng, “quán tính” thống kê này sẽ không còn nữa khi sang đến năm thứ hai. Và điều này cũng làm cho tốc độ tăng trưởng dần khôi phục trở lại một khi chính sách thắt chặt được nới lỏng. Vào thời điểm hiện tại, rõ ràng Việt Nam có thể ưu tiên cho mục tiêu bình ổn kinh tế.

File đính kèm:

  • pdfTai lieu tham khao Kinh te Viet Nam.pdf