Văn minh Trung Quốc

Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đông Á. Trên lãnh thổ Trung Quốc có hai con sông lớn chảy qua, đó là Hoàng Hà (dài 5.464 km) ở phía Bắc và Trường Giang (dài 6.300 km) ở phía Nam. Hoàng Hà từ xưa thường gây ra lũ lụt, nhưng do đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy nơi đây trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.

Khi mới thành lập nước (vào khoảng thế kỉ XXI TCN) địa bàn Trung Quốc chỉ mới là một vùng nhỏ ở trung lưu lưu vực Hoàng Hà. Từ đó lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng dần, nhưng cho đến thế kỉ III TCN, tức là đến cuối thời cổ đại, phía Bắc của biên giới Trung Quốc chưa vượt quá dãy Vạn lí trường thành ngày nay, phía Tây mới đến Đông Nam tỉnh Cam Túc và phía Nam chỉ bao gồm một dải đất nằm dọc theo hữu ngạn Trường Giang mà thôi.

Từ cuối thế kỉ III TCN Trung Quốc trở thành một nước phong kiến thống nhất. Từ đó nhiều triều đại của Trung Quốc đã chinh phục các nước xung quanh, do đó có những thời kì biên giới của Trung Quốc được mở ra rất rộng. Đến thế kỉ XVIII lãnh thổ Trung Quốc về cơ bản được xác định như hiện nay.

 

doc5 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2141 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn minh Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện. Văn học Kinh thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân - Thu, được Khổng tử sưu tập và chỉnh lí. Kinh thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng. Thơ Đường là thời kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả nổi bật lên ba nhà thơ lớn đó là Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Tới thời Minh-Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: “Tam quốc chí diễn nghĩa” của La Quán Trung, “Thủy hử” của Thi Nại Am, “Tây du kí” của Ngô Thừa Ân, “Nho lâm ngoại sử” của Ngô Kính Tử, “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần... trong đó “Hồng lâu mộng” được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất. 2. Sử học Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân-Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu. Thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác phẩm “Sử kí Tư Mã Thiên” chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế. Thời Đông Hán, có các tác phẩm “Hán thư” của Ban Cố, “Tam quốc chí” của Trần Thọ, “Hậu Hán thư” của Phạm Diệp. Thời Minh-Thanh, các bộ sử như “Minh sử”, “Tứ khố toàn thư” là những di sản văn hóa đồ sộ của Trung Quốc. 3. Khoa học tự nhiên và kĩ thuật Toán học Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện cuốn “Chu bễ toán kinh”, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông. Thời Đông Hán, đã có cuốn “Cửu chương toán thuật”, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc1, đã có cả khái niệm số âm, số dương. Thời Nam-Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó. Thiên văn học Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can-Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời. Thế kỉ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất. Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn “Thụ thời lịch” xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII. Y dược học Thời Chiến Quốc đã có sách “Hoàng đế nội kinh” được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời Minh có cuốn “Bản thảo cương mục” của Lí Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữ Latinh và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc. Kĩ thuật Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỉ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng. 4. Hội họa, điêu khắc, kiến trúc Hội họa Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000-6000 năm với các loại hình: bạch họa, bản họa, bích họa. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thủy mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn “Lục pháp luận” của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tuỳ. Điêu khắc Ở Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay. Kiến trúc Cũng có những công trình rất nổi tiếng như Vạn lí trường thành (6700 km), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh. 5. Tư tưởng, tôn giáo - Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành Âm dương tức lưỡng nghi là 2 yếu tố cơ bản có tính chất đối lập và chế ngự lẫn nhau, chúng tác động lẫn nhau tạo thành tất cả mọi vật trong vũ trụ. Dương có các tính chất như: giống đực, ánh sáng, nóng, chủ động, rắn rỏi… Âm có các tính chất như: giống cái, bóng tối, lạnh, thụ động, mềm mỏng… Mọi tai dị trong thiên nhiên sở dĩ xảy ra là do không điều hòa được 2 lực lượng ấy. Bát quái là 8 yếu tố vật chất tạo thành thế giới: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm), Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (hồ). Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất. Thuyết Bát quái mang tính duy vật và biện chứng nhưng những yếu tố tích cực rất hạn chế. Sự gán ghép nội dung cho các quẻ (như Li là lửa, là con gái đầu lòng) là hoàn toàn không có cơ sở khoa học nên thuyết này đã trở thành cơ sở tốt cho việc bói toán. Ngũ hành là 5 tác động tạo thành sự vật: Mộc (gỗ có tính chất động, khởi đầu), Hỏa (lửa có tính chất nhiệt, phát triển), Thổ (đất có tính chất nuôi dưỡng, sinh sản), Kim (kim loại có tính chất thu lại), Thủy (nước có tính chất tàng chứa). Quy luật biến đổi của vạn vật là do mối quan hệ “tương sinh” và “tương khắc”. Tương sinh là sinh ra nhau; cụ thể là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Tương khắc là chống lại nhau; cụ thể là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Có tương sinh mà không tương khắc thì không thăng bằng, không phát triển bình thường được. Có tương khắc mà không tương sinh thì không thể có sự sinh trưởng biến hóa. Như vậy, qui luật tương sinh tương khắc của Ngũ hành, về bản chất, chính là sự cụ thể hóa thuyết Âm dương. Thuyết Âm dương Ngũ hành ra đời vào thời Chiến Quốc là cơ sở để giải thích biến hóa và phát triển của tự nhiên cũng như của xã hội. - Nho gia Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc do Khổng Tử (551-479 TCN) sáng lập. Nho gia chủ trương Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ). Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời: Nhân (lòng yêu thương), Nghĩa (cư xử theo lẽ phải), Lễ (sự tôn trọng, hòa nhã), Trí (sự hiểu biết), Tín (giữ lời hứa). Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con). Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có: Công (khéo léo trong việc làm), Dung (hòa nhã trong sắc diện), Ngôn (mềm mại trong lời nói), Hạnh (đức hạnh trong lối sống). Nho gia đề cao tư tưởng Chính danh định phận và Thiên mệnh, trọng “Lễ trị” hơn “Pháp trị”. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người. Mạnh Tử (371-289 TCN) là người thừa kế và phát triển học thuyết Nho giáo thêm một bước. Mặc dù tin vào mệnh trời nhưng nếu con người biết tu dưỡng có thể thay đổi được ngoại giới. Mạnh Tử cho rằng đạo đức bẩm sinh được giáo dục tốt sẽ đạt đến cực thiện còn không sẽ mai một. Về chính trị Mạnh Tử chủ trương đường nhân chính và thống nhất. Nhân chính là dùng đạo đức để trị nước, quí dân hơn quí vua. Thống nhất là chấm dứt chiến tranh giữa các nước bằng con đường nhân chính chứ không bằng biện pháp chiến tranh. Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo. - Đạo gia Người đề xuất học thuyết Đạo gia là Lão Tử và người phát triển học thuyết này là Trang Tử. Hai ông đã thể hiện tư tưởng của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Theo Lão Tử, “Đạo” là cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Qui luật biến hóa tự thân của mỗi sự vật ông gọi là “Đức”. Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát triển và suy vong đều có mối liên hệ với nhau. Đạo đức trong Đạo gia là một phạm trù triết học khác với Nho gia là thuộc phạm trù lí luận. Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại “đạo trời”, từ đó sinh tư tưởng an phận, lánh đời. - Đạo giáo Đạo giáo sinh ra sau này khác hẳn Đạo gia, mặc dù có phái trong Đạo giáo tôn Lão Tử làm “Thái thượng lão quân”. Hạt nhân cơ bản của Đạo giáo là tư tưởng thần tiên. Đạo giáo cho rằng sống là một việc sung sướng nên họ trọng sinh, lạc sinh. - Pháp gia Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương “pháp trị”, coi nhẹ “lễ trị”. Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sĩ thời Tần Thủy Hoàng. Theo Hàn Phi Tử, trị nước chỉ cần pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu với mọi người, không cần lễ nghĩa. Ông cho rằng trị nước cần nhất 3 điều: Pháp Phải định ra được pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu, công bằng với mọi người, không phân biệt đó là quí tộc hay dân đen. Thế Muốn thực thi pháp luật thì các bậc quân vương phải nắm vững quyền thế, không chia xẻ cho kẻ khác. Thuật Thuật dùng người có 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ vào tài năng và lòng trung thành, không cần dòng dõi, đức hạnh. Khảo hạch là phải kiểm tra công việc thường xuyên. Thưởng phạt thì chủ trương “ai có công thì thưởng, ai có tội thì trừng phạt thật nặng, bất kể là quí tộc hay dân đen”, trọng thưởng, trọng phạt. - Mặc gia Người đề xướng là Mặc Tử (Khoảng giữa thế kỉ V TCN đến giữa thế kỉ IV TCN). Hạt nhân tư tưởng triết học của Mặc gia là thuyết “kiêm ái” (thương yêu mọi người không phân biệt thân sơ). Mặc Tử chủ trương đề cao người có tài đức bất kể nguồn gốc xuất thân để giữ những chức vị cao. Tư tưởng của phái Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng không ít ảo tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau, ảnh hưởng của phái Mặc gia hầu như không còn đáng kể. (Nguồn: - “Lịch sử văn minh thế giới” Tác giả: Vũ Dương Ninh - Nguyễn Gia Phu Nguyễn Quốc Hùng - Đinh Ngọc Bảo Nhà xuất bản Giáo dục - “Lịch sử văn minh thế giới” Biên soạn: Đoàn Trung)

File đính kèm:

  • docVan minh Trung Quoc.doc