Sự hình thành các đới cảnh quan tự nhiên

Các đới cảnh quan địa lý chính là những tổng thể Địa lý tự nhiên trong đó có mối liên hệ và sự phối hợp của các thành phần riêng biệt trên bề mặt Trái đất. Nó được hình thành trên nền của các vòng đai địa lý, là biểu hiện tổng hợp của sự thay đổi mang tính địa đới của tất cả các thành phần của cảnh quan.

Các đới cảnh quan trên Trái đất là những tổng thể Địa lý tự nhiên toàn vẹn, ranh giới của chúng được hình thành dựa trên 3 yếu tố có liên quan mật thiết với nhau. Một trong 3 yếu tố đó là cán cân bức xạ hàng năm (R) của bề mặt đất, nghĩa là sự khác nhau giữa lượng nhiệt hấp thụ của bề mặt đó và lượng nhiệt hoàn lại bởi bề mặt đó. Yếu tố thứ hai là tổng lượng mưa hàng năm (r). Yếu tố thứ ba là chỉ số khô hạn theo bức xạ (K) nói lên mối liên quan giữa hai yếu tố trên, trong đó:

Cán cân bức xạ R (kcal/cm2/ năm): R = (Q + q) . (1 – A) – E

trong đó Q là bức xạ trực tiếp, q là bức xạ khuyếch tán, A là albedo của bề mặt, E là những hữu hiệu của bề mặt.

R < 50 kcal/cm2/ năm: Vòng đai cực, cận cực và ôn hoà

R = 50 – 75 kcal/cm2/ năm: Vòng đai cận nhiệt đới

R > 75 kcal/cm2/ năm: Vòng đai nhiệt đới

Chỉ số khô hạn K quy định kiểu đới cảnh quan và các đới cảnh quan là những bộ phận của vòng đai địa lý:

 

doc7 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4185 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hình thành các đới cảnh quan tự nhiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bùn. Rừng Taiga có cấu trúc đơn giản nên giới động vật cũng không giàu. Chủ yếu là những loài sống trên cây như sóc, chim cú. Các loài sống trên đất có nai, hoẵng, hải li, linh miêu, gấu. - Đới rừng hỗn hợp và rừng lá rộng: Xuất hiện ở vùng có khí hậu ôn đới hải dương ấm và ẩm. Tại bán cầu Bắc, đới rừng này nằm ở phần Đông nước Mĩ, Tây Âu và Viễn Đông, ở bán cầu Nam phân bố dọc bờ Tây Châu Mĩ (tới 350 vĩ Nam). Đặc trưng về mặt khí hậu của đới là mùa đông đã bớt lạnh, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất thay đổi từ - 120C đến + 50C, tháng nóng nhất đã tới 160C đến 210C. Lượng mưa khá lớn, từ 500 - 1000mm/ năm, phần duyên hải phía Tây Châu Mĩ do xoáy tụ và gió Tây, lượng mưa lớn tới 1200 - 1300mm/ năm. Sông ngòi dày đặc, nhiều đầm lầy, nước ngầm nằm không sâu. Dưới rừng hỗn hợp vẫn là đất Potzol, dưới tán rừng có cỏ mọc là đất Potzol hóa - cỏ, nơi đầm lầy có đất Potzol - lầy, than bùn. Đất hình thành dưới rừng cây lá rộng có khác với rừng Taiga và rừng hỗn hợp do độ phì khá hơn và có màu nâu nên gọi là đất nâu. Tùy điều kiện khí hậu, nếu quá trình tích lũy phì liệu cao hơn thì tạo nên loại đất nâu sẫm. Trong đới rừng hỗn hợp, cùng mọc với các loài cây lá nhọn như thông, tùng, vân sam là các loại cây lá rộng như phong, sồi, dẻ, hồ đào, bần, dương. Giới động vật trong rừng phong phú hơn ở rừng Taiga. Ngoài các loài gấu, sóc, chồn, linh miêu thường gặp trong rừng Taiga, còn có nhiều loài của vùng cận nhiệt và nhiệt đới như lợn rừng, hổ, bò rừng, hươu. Ở đây còn gặp đông đảo các loài gà và các loài chim. - Đới thảo nguyên rừng và đới thảo nguyên: - Là đới chuyển tiếp từ rừng sang đới thảo nguyên với đặc trưng là sự xen kẽ giữa những khoảng rừng và khoảng đồng cỏ. Tập trung thành dải ở trung tâm đại lục Bắc Mĩ, vùng tiếp giáp Á - Âu, nhưng không có ở bán cầu Nam. Khí hậu của đới ẩm và khô khan hơn. Nhiệt độ tháng lạnh nhất từ - 50C đến - 200C, tháng nóng nhất là từ 180C đến 250C. Lượng mưa giảm xuống chỉ còn dưới 1000mm/năm, dòng chảy nhỏ hơn, ít đầm lầy. Đất rừng màu nâu và đen. Nơi khô hạn có sự tích lũy muối Na sinh ra loài đất mặn Xolonsak. Thành phần thực vật đặc trưng là các loài rụng lá, các loài cây trong rừng là sồi, đoạn, tùng, thông. Tại các khoảng đồng cỏ, các gống thực vật thuộc họ hoà thảo có thân rễ và cỏ tạp ưa ẩm thống trị. Hệ động vật không có giống riêng biệt. - Đới thảo nguyên là một loại cảnh quan mở phát triển trên địa hình bằng phẳng, khí hậu nóng hơn và khô hơn. Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất từ 00C đến 200C, tháng nóng nhất nhiệt độ trung bình đã tới 20 - 230C. Lượng mưa chỉ có 140 - 550mm/ năm và tập trung vào đầu mùa hạ. Mạng lưới sông ngòi thưa thớt, sông ít nước chảy quanh co và chậm chap, không có hồ lớn.  Chính vì thế trên thảo nguyên luôn xảy ra hạn hán, gió khô, bão bụi. Thực vật chỉ có cỏ, còn cây rừng chỉ mọc dọc thung lũng. Đất thảo nguyên nửa khô hạn là loại đất đen (Secnoziom) chứa nhiều Ca, Mg. Thảo nguyên phát triển rộng ở Bắc Mĩ, Liên Xô cũ và Mông Cổ. Giới động vật gồm nhiều loài gặm nhấm như các loài chuột, dúi, các loài ăn cỏ như thỏ, hoẵng, sơn dương. - Đới nửa hoang mạc và đới hoang mạc: -Đới nửa hoang mạc là đới chuyển tiếp giữa các thảo nguyên và hoang mạc. Đới này xuất hiện trong điều kiện khí hậu khô hơn, lượng mưa chỉ còn 140 - 400mm/năm. Có thể gặp cảnh quan hoang mạc ở Tây Á, ở một vài cao nguyên thuộc Bắc Mĩ và Nam Mĩ. Các loại đất trong đới là đất nâu, đất hạt dẻ và cả đất Xolonask. Các dạng địa hình đặc trưng là các cồn cát do gió tạo thành. - Đới hoang mạc chiếm một diện tích đáng kể ở vòng đai ôn hòa, nhưng chỉ ở bán cầu Bắc tại Bắc Mĩ, Trung Á. Khí hậu của đới hoang mạc ôn đới rất khắc nghiệt, tháng lạnh nhất có thể xuống tới - 150C, nhưng tháng nóng nhất có thể tới 320C, cực trị có thể tới 500C đến 800C. Mưa rất ít, lượng mưa hàng năm chỉ từ 75mm đến 250mm, dòng nước chảy định kỳ, nước ngầm nằm không sâu, thường mặn. Trong điều kiện khô khan, các dạng địa hình phong thành ưu thế và quá trình phong hóa vật lí thống trị. Trong đất có sự tích lũy các loại muối và các chất kiềm Ca, Mg; hình thành các loại đất nâu, xám, Xolonsac và Xolonet. Trên các loại đất đó mọc các loài thực vật khác nhau: loài ưa mặn, loài mọc trên cát, loài trên đất hoàng thổ sét. Các loài động vật quý hiếm sống trên hoang mạc có ngựa tapan, hổ, ngoài ra còn có các loài linh dương, lạc đà, thỏ rừng, chó rừng, rùa thảo nguyên, chuột lớn hoang mạc và các loài rắn, thằn lằn, bọ hung. - Các đới cảnh quan cận nhiệt: Có vị trí chuyển tiếp từ vòng đai ôn hòa sang vòng đai nhiệt đới. Đặc trưng là tại các vĩ độ này có sự hoạt động của khối khí nhiệt đới vào mùa hạ và khối khí ôn đới vào mùa đông. Ở đây thấy sự lặp lại từ đới cảnh quan rừng Địa Trung Hải, đới cảnh quan rừng hỗn hợp cận nhiệt thường xanh, đới xavan cận nhiệt, đới nửa hoang mạc đến đới hoang mạc cận nhiệt. Giới động, thực vật của các đới cảnh quan này cũng mang tính chất chuyển tiếp. Trong cảnh quan rừng có các loài cây ôn đới như thông, tùng, bách, sồi, dẻ, đỗ quyên nhưng cũng có các loài nhiệt đới như ngô đồng, dâu tằm. Trong đới xavan có cả xavan sồi và xavan đậu gai, các loài cây họ hành tỏi. Động vật nhiệt đới ở xavan có các loài gặm nhấm, bò sát, chuột chù, cá sấu, hồng hạc, chuột có túi (kanguru), đà điểu. II.3. Các đới cảnh quan của vòng đai nóng: Vòng đai nóng nằm trong giới hạn của hai đường đẳng nhiệt 200C ở hai bán cầu . Cán cân bức xạ trong vòng đai thay đổi từ 60 - 80 kcal/cm2/năm. Sự khác nhau giữa các đới trong vòng đai về chế độ nhiệt ẩm thể hiện ở biên độ nhiệt và mức độ khô hạn. - Đới rừng nhiệt đới: Rừng nhiệt đới phân bố ở phía nam bán đảo Florida, phía Đông của Trung Mĩ, ở Đông Nam Á, các đảo ở Châu Đại Dương. Điều kiện khí hậu của đới là nóng ẩm, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất là 180C, tháng nóng nhất là 280C lượng mưa từ 1000 đến 2000mm/năm. Sông ngòi nhiều nước. Vỏ phong hóa dày, đất Feralit đỏ vàng. Các loài cây thường xanh thuộc họ Đậu, họ Dâu tằm, trong rừng có nhiều dây leo, cây phụ sinh. Thế giới động vật ở đây giống rừng xích đạo. - Đới xavan nhiệt đới: Đới xavan chiếm một diện tích rộng trong vòng đai, rộng nhất là lục địa Phi, ngoài ra còn có ở các vùng khác như Nam Mĩ, Bắc Australia, Hinduxtan ở Châu Á. Biên độ nhiệt trong năm của đới lớn hơn so với đới rừng nhiệt đới, tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình 12 - 200C, tháng nóng nhất 20 - 350C. Lượng mưa ít hơn nhiều, từ 100 - 500mm/ năm. Khí hậu có sự phân hóa ra hai mùa khô và ẩm rõ rệt. Mạng lưới sông ngòi thưa thớt, vào thời kì mưa có lũ ngắn dữ dội, mùa khô tình trạng sông ít nước kéo dài và các dòng sôg nhỏ bị khô cạn, nước ngầm nằm sâu và thường bị muối hoá. Cảnh quan xavan nhiệt đới về căn bản giống thảo nguyên rừng, nhưng rừng ở đây chỉ là những loài cây gỗ thấp, ưa khô, mọc thưa thớt trên nền cỏ thảo nguyên. Khí hậu nóng nên thuận lợi cho quá trình Feralit tiến triển, hình thành loại đất nâu đỏ bên cạnh đất nâu xám và đất xám. Giới động vật khá phong phú, gồm các loài động vật ăn cỏ, các loài gặm nhấm, loài bò sát và cả các loài ăn thịt lớn, nhỏ. Tại đây gặp các loài thú lớn như hổ, voi, sư tử, báo, tê giác, hà mã, các loài thú chạy nhảy như hươu cao cổ, ngựa vằn, sơn dương, thú leo trèo như khỉ, vượn có túi, ngoài ra còn có các loài chim. - Đới hoang mạc nhiệt đới: Chiếm một diện tích ngang đới trên, hầu hết ở Bắc Phi kéo dài qua lục địa (Xahara) tới Hồng Hải, qua Aribi, đứt quãng để rồi tiếp tục ở phần Nam sơn nguyên Iran, lưu vực sông Indus (hoang mạc Thar), thể hiện tính lục địa ở nửa phía Bắc của Đông bán cầu. Hoang mạc nằm trong lục địa còn có Châu Úc. Tại lục địa Châu Mĩ và Nam Phi, các hoang mạc chỉ có bờ Tây (hoang mạc California, hoang mạc Atacama và nửa hoang mạc Kalahari). Đặc trưng khí hậu của đới hoang mạc là nóng, khô, biên độ nhiệt trung bình tháng rất lớn từ 70C đến 350C, mưa rơi không đều, lượng mưa nhỏ chỉ từ 50 - 200mm/ năm, độ ẩm không khí rất thấp chỉ 30%, không có dòng chảy thường xuyên, các hồ đều mặn. Trong điều kiện đó đó quá trình phong hóa vật lí thống trị, quá trình hình thành thổ nhưỡng hạn chế. Các dạng địa hình thổi mòn mang tính địa đới như dãy cát, cồn cát, backhan (đồi cát dạng trăng khuyết, hai sườn bất đối xứng), thung lũng khô. Thảm thực vật thưa thớt gồm các loài ưa khô như xương rồng, bụi gai, các loài cỏ họ Hòa thảo. Thế giới động vật nghèo nàn hơn trong đới xavan, có các loài móng guốc, sơn dương, linh cẩu. - Đới rừng xích đạo ẩm ướt (còn mang tên rừng Ghilê hay rừng mưa nhiệt đới). Là một trong những đới cảnh quan giàu có và cổ kính nhất Trái đất. Đới rừng này chiếm diện tích lớn nhất ở Nam Mĩ gồm phần tây của miền đất thuộc lưu vực sông Amazôn, kéo sang đến sườn núi Andes, Ở châu Phi, nó chiếm từ ven vịnh Ghinê đến thượng lưu sông Cônggô và quần đảo Malaya ở Đông Nam Á. Đặc trưng khí hậu của đới là quanh năm nóng ẩm, điều hòa. Cán cân bức xạ đã vượt quá 80kcal/cm2/năm, nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 24 - 280C, biên độ nhiệt độ thấp từ 2 - 40C. Lượng mưa lớn, trung bình từ 1500 - 3000mm/năm, sườn đón gió có thể lên tới 10.000mm/năm. Mạng lưới sông ngòi dày đặc, nhiều nước, nhiều đầm hồ. Sự phong phú của lượng nhiệt ẩm đã tạo điều kiện cho các quá trình địa hóa, sinh học diễn ra với cường độ mạnh mẽ. Sự khoáng hóa vật chất hữu cơ diễn ra mạnh mẽ nên mùn tích tụ trong đất không nhiều, mà luôn được chuyển hóa trong dòng vật chất, cây cối sinh trưởng quanh năm. Khối lượng sinh vật rất lớn, tới 5.000 tạ/ ha. Lượng tăng trưởng hàng năm gấp 5 - 10 lần so với rừng ôn đới (350 - 500 tạ/ha so với 25 - 100 tạ/ha). Đặc trưng của rừng là có cấu trúc nhiều tầng (4 - 5 tầng cây), đa dạng về thành phần loài, Trong rừng ít cây bụi và cỏ, nhiều dây leo và loài phụ sinh. Giới động vật cũng vô cùng phong phú về loài và có nhiều loài độc đáo. Rừng Amazôn có khỉ hú, heo vòi, tà tu, hổ Nam Mĩ, bò biển, cá sấu. Rừng Châu Á có đười ươi, gấu Mã lai, bò rừng, heo vòi, hươu, voi, hổ, báo, thằn lằn, rắn hổ mang. Rừng Tây Phi có tinh tinh, hà mã, cá sấu, tắc kè Châu Phi, rắn hổ mang… Khí hậu trong rừng ẩm ướt nên giới côn trùng, sâu bọ cũng nhiều, các loài chim cũng đông.

File đính kèm:

  • docCac doi canh quan tu nhien tren Trai Dat.doc