Một số biện pháp về dạy - Học giải toán có lời văn ở lớp 2

Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI - thế kỷ mà khoa học công nghệ đang rất phát triển, đòi hỏi con người phải có vốn tri thức thực sự thì mới tiếp cận được. Vì vậy mà công tác giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đại hội Đảng ta lần thứ IX đã khẳng định: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Để giáo dục đạt hiệu quả thì không thể không kể đến công tác dạy học trong nhà trường , nhất là nhà trường tiểu học.

Là một giáo viên Tiểu học tôi luôn xác định: phải đổi mới phương pháp giáo dục. Vì vậy, trong qúa trình giảng dạy, tôi thường xuyên học hỏi, tìm tòi các biện pháp giúp học sinh nắm được các trí thức mới một cách có hiệu quả hơn, ở các môn học; với suy nghĩ : “ Học sinh phải là chủ thể của quá trình học tập.” Đặc biệt là trong môn Toán, tôi luôn trăn trở: làm sao để giúp học sinh tiếp cận với kiến thức toán học một cách thuận tiện nhất, chính xác nhất.

 

doc11 trang | Chia sẻ: lantls | Lượt xem: 7551 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp về dạy - Học giải toán có lời văn ở lớp 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p được thực hịên bằng hệ thống các câu hỏi - đáp phù hợp. Thực hiện kế hoạch giải: ( trình bày bài giải ) Thông qua việc phân tích bài toán, học sinh đặt lời giải viết và thực hiện phép tính. - Kiểm tra lời giải, đánh giá kết quả 2, Đối với việc dạy - học giải toán có lời văn ở lớp 2. Khi dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề, xác định dạng toán: liên quan đến cộng ( trừ) không nhớ ( có nhớ ) trong phạm vi 100; bài toán về nhiều hơn( ít hơn); dạng toán liên quan đến bảng nhân ( chia ) từ bảng 2 đến bảng 5 hay đó là bài toán liên quan đến hình học. Rồi từ đó học sinh tóm tắt bài toán ,tìm cách giải, trình bày bài giải và kiểm tra, đánh giá kết quả. Có nghĩa là cũng cũng phải đảm bảo các bước khi giải một bài toán có lời văn thông thường. Nhưng đối với học sinh lớp 2, kĩ năng giải toán có lời văn có phần hạn chế hơn so với học sinh cuối cấp . Bởi vậy, giáo viên cần linh hoạt trong khi hướng dẫn các bước giải toán để kĩ năng giải toán của các em ngày càng hoàn thiện hơn. * Các biện pháp để tổ chức thực hiện Để giúp học sinh nắm vững lý thuyết và áp dụng vào giải toán có lời văn dễ dàng, có hiệu quả, ta cần giảng dạy theo các bước sau đây : 1. Giúp học sinh nắm vững lý thuyết : Bài toán có lời văn ở lớp 2 thường là những bài toán đơn, chỉ bao gồm 1 trong 4 phép tính: cộng , trừ, nhân, chia. Khi hướng dẫn học sinh giải, giáo viên phải hướng dẫn học sinh chỉ ra được hai dữ kiện mà bài toán đã cho biết rồi dựa vào quan hệ toán học có trong 1 dữ kiện ( hoặc dựa vào yêu cầu của bài toán ) mà xác định dạng toán rồi giải. * Đối với các bài toán đơn giản, cho sẵn hai dữ kiện: - Bài toán giải bằng một phép tính cộng: + Cho biết 2 dữ kiện và yêu cầu tìm tổng của chúng Ví dụ : Bài 4 (Trang 6 – Toán 2 ) Trong thư viện có 25 học sinh trai và 32 học sinh gái. Hỏi có tất cả bao nhiêu học sinh đang ở trong thư viện? Các dữ kiện: Có: 25 học sinh trai 32 học sinh gái. + Cho biết hai dữ kiện, 1 dữ kiện chỉ quan hệ nhiều hơn ( hơn ) 1 số đơn vị Ví dụ : Bài 1 ( Trang 24 – Toán 2 ) Hoà có 4 bông hoa, Bình có nhiều hơn Hoà 2 bông hoa. Hỏi Bình có mấy bông hoa ? Các dữ kiện : Hoà có :4 bông hoa Bình nhiều hơn Hoà :2 bông hoa - Bài toán giải bằng một phép tính cộng: + Cho biết hai dữ kiện, yêu cầu tìm hiệu của chúng. Ví dụ: Bài 4 ( Trang 11 – Toán 2 ) Mẹ và chị hái được 85 quả cam, mẹ hái được 44 quả cam. Hỏi chị hái được bao nhiêu quả cam? Các dữ kiện: Mẹ và chị: 85 quả cam Mẹ hái : 44 quả cam. + Cho biết 2 dữ kiện, 1 dữ kiện chỉ quan hệ ít hơn (ngắn hơn, kém) 1 số đơn vị. Ví dụ: Bài 1 (Trang 30 – Toán 2 ) Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? Các dữ kiện: Vườn nhà Mai có :17 cây cam Vườn nhà Hoa ít hơn vườn nhà Mai : 7 cây cam - Bài toán giải bằng một phép tính trừ : + Cho biết 2 dữ kiện, yêu cầu tìm giá trị tương ứng với một dữ kiện Ví dụ: Bài 3 ( Trang 96 – Toán 2 ) Mỗi xe đạp có hai bánh xe. Hỏi 8 xe đạp có bao nhiêu bánh xe ? Các dữ kiện: Mỗi xe đạp có : 2 bánh xe. 8 xe đạp : … bánh xe ? - Bài toán giải bằng một phép tính nhõn: Ví dụ : Bài 3 ( Trang 111 – Toán 2 ) Có 18 cờ chia đều cho 2 tổ. Hỏi mỗi tổ được mấy lá cờ? Các dữ kiện: 18 lá cờ chia đều: 2 tổ mỗi tổ ? + Cho biết 2 dữ kiện, yêu cầu tìm giá trị tưng ứng của 1 dữ kiện. Ví dụ : Bài 4 ( Trang 111 – Toán 2 ) Có 20 học sinh xếp thành các hàng, mỗi hàng có 2 bạn. Hỏi tất cả có mấy hàng? Các dữ kiện: Có 20 học sinh. Mỗi hàng có 2 bạn. Cú tất cả : … hàng ? * Đối với những bài toán phức tạp hơn, mới cho trực tiếp 1 dữ kiện còn dữ kiện còn dữ kiện kia thì học sinh phải suy luận để tìm ra rồi từ đó mới xác định dạng toán và giải . Ví dụ : Bài 3 ( Trang 177 – Toán 2 ) Tính chu vi hình tứ giác MNPQ, biết độ dài mỗi cạnh của hình đó đều bằng 5cm Dữ kiện bài toán cho là: Mỗi cạnh dài 5cm Học sinh phải đi tìm dữ kiện thứ 2 là :số cạnh của hình tứ giác bằng phép suy luận: Hình tứ giác thì có 4 cạnh nên dữ kiện thứ 2 là : có 4 cạnh Xác định dạng toán: bài toán liên quan đến phép nhân (thuộc bảng nhân 5) Học sinh giải Trong quá trình giải, học sinh nào có vướng mắc thì giáo viên hướng dẫn kịp thời. 2, Rèn kĩ năng giải toán theo các bước. Bước 1: Tìm hiểu và tóm tắt đề. - Học sinh đọc kĩ đề, chỉ ra được: các dữ kiện là cái mà bài toán đã cho biết và yêu cầu của bài toán. - Tóm tắt bài toán bằng lời lẽ cô đọng nhất. Khuyến khích học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, nhất là với bài toán về nhiều hơn, ít hơn. Bước 2 : Tìm hướng giải - Học sinh dựa vào tóm tắt bài toán tức là dựa vào các dữ kiện, quan hệ toán học đã cho ở dữ kiện hay yêu cầu của bài toán để xác định dạng toán và định hướng giải. Bước 3: Trình bày bài giải . - Học sinh dựa vào hai bước trên để trình bày bài giải - ở lớp 1, học sinh đã làm quen với bài toán có lời văn song việc thực hành giải của các em còn hạn chế. Hơn nữa, như đã nêu ở mục1 của phần A do đó theo tôi: ở bước này, giáo viên cần chú ý đến vịêc trình bày bài giải ở cả mặt nội dung và hình thức. Giáo viên thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở việc trình bày bài giải của học sinh như: viết hoa chữ cái đầu của tiếng đầu: bài giải, lời giải, đáp số; sử dụng dấu hai chấm sau từ : bài giải , câu lời giải, từ đáp số; gạch chân từ bài giải, viết tên đơn vị ( danh số ) ở kết quả phép tính trong ngoặc đơn. Mặt khác, để các em có một bài giải được trình bày cân đối trên trang vở, tôi tập cho học sinh cách ước lượng, ví dụ: từ “ Bài giải ” có 2 tiếng thì viết cách lề 4 ô li; câu lời giải gồm 5,6 tiếng thì viết các lề 2 ô li, phép tính và tên đơn vị (danh số ) khoảng bằng 3,4 tiếng thì viết cách lề 3 ô li, ... Việc ước lượng này, học sinh lớp 2A , các em được làm quen hàng ngày khi ghi vở ghi đầu bài. Do đó việc giúp các em trình bày giải cân đối trên trang vở không phải là quá khó, để các em có 1 bài giải vừa đúng lại vừa đẹp. Bước 4: Kiểm tra, đánh giá - Lưu ý học sinh khi làm xong bài phải kiểm tra lại xem việc đặt câu lời giải, viết phép tính, tính toán hay trình bày bài giải đã đúng chưa. *. Một số ví dụ minh hoa cụ thể: * Dạng cơ bản: Cho biết cả 2 dữ kiện Ví dụ: Bài 3 ( Trang 24 – Toán 2 ) Mận cao 95cm, Đào cao hơn Mận 3 cm. Hỏi Đào cao bao nhiêu xăng ti mét ? Giáo viên Học sinh ? Bài toán cho biết gì ? ? Bài toán hỏi gì ? ? Bài toán thuộc dạng gì? Giáo viên yêu cầu 1 học sinh lên bảng tóm tắt và giải, cả lớp tóm tắt và giải ra vở. Bài toán cho biết : Mận cao 95 cm, Đào cao hơn Mận 3 cm Bài toán hỏi: Đào cao bao nhiêu xăng ti mét ? Bài toán thuộc dạng: Bài toán về nhiều hơn Tóm tắt : Mận cao : 95 cm Đào cao hơn Mận : 3 cm Đào cao : ..cm ? Bài giải Đào cao số xăng ti mét là: 95 + 3 = 98 ( cm) Đáp số :98 cm * Dạng phức tạp hơn: Cho biết 1 dữ kiện, còn 1 dữ kiện thì học phải suy luận tìm ra Ví dụ : Bài 5 ( Trang 181 - Toán 2 ) Một hình tam giác có độ dài mỗi cạnh đều bằng 5cm. Hỏi chu vi hình tam giác đó bằng bao nhiêu xăng ti mét? Giáo viên Học sinh ? Bài toán cho biết gì? ? Bài toán hỏi gì? ? Muốn tính đựơc chu vi của hình tam giác ta cần biết gì? ? Hình tam giác có mấy cạnh ? ? Bài toán thuộc dạng gì ? Giáo viên yêu cầu 1 học sinh lên bảng tóm tắt rồi giải, cả lớp tóm tắt rồi giải vào vở Bài toán cho biết: Mỗi cạnh hình tam giác dài 5 cm Bài toán hỏi: Chu vi hình tam giác bằng bao nhiêu xăng ti mét ? Ta cần biết: Số cạnh của hình tam giác Hình tam giác có 3 cạnh Bài toán thuộc dạng tính chu vi hình tam giác liên quan đến phép nhân Tóm tắt : Mỗi cạnh hình tam giác dài : 5 cm Chu vi hình tam giác : ...cm ? Bài giải : Chu vi hình tam giác là: 5 x 3 = 15( cm ) Đáp số: 15 cm Trong quá trình dạy học, tôi đã áp dụng các kĩ năng giải toán nêu trên và thực dạy lớp 2 thì thấy chất lượng học sinh được nâng lên rất nhiều III- Kiểm nghiệm: Sau khi vận dụng một số biện pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn vào dạy học ở lớp mình, tôi đã hướng dẫn học sinh theo những bước cụ thể rõ ràng, không vận dụng rập khuôn, máy móc đối với từng loại toán; giúp học sinh nhận dạng toán và định hướng được cách giải của từng dạng chính là đã tập trung được sự chú ý của học sinh. Các em hoạt động tích cực, tự giác, tiếp thu bài tốt, nhớ lâu, biết vận dụng kỹ năng vào bài thực hành và có kết quả cao. Bước đầu đã hình thành ở học sinh kỹ năng giải toán có lời văn. Kết quả khảo sát chất lượng ở lớp 2B cuối tháng 3 năm 2013 như sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu 2B 29 SL % SL % SL % SL % 7 24,2 9 31 9 31 4 13,8 Phần III: kết luận và đề xuất 1- Kết luận Như vậy rèn kĩ năng giải toán có lời văn ở lớp 2, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững nội dung bài toán, xác định được dạng toán và có kĩ năng trình bày bài giải chính xác, sạch sẽ, cân đối và khoa học. Có thể nói: dạy giải toán là một vấn đề hết sức quan trọng, giáo viên không những dạy học sinh phương pháp để giải toán mà thông qua đó còn rèn cho học sinh tính cẩn thận, kiên trì và tính thẩm mĩ. Đồng thời cũng rèn cho học sinh thói quen suy nghĩ, suy luận lô gíc để cho các em có thể vươn tới đỉnh cao khoa học và là hành trang cho các em bước vào cuộc sống sau này. 2- Kiến nghị, đề xuất Từ thực tế giảng dạy, tôi có một số kiến nghị, đề xuất sau: - Các cấp ngành giáo dục cần thường xuyên mở các hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học để giáo viên có điều kiện giao lưu, học hỏi. - Cần nâng cao dần yêu cầu về tổ chức một số cuộc thi đối với giáo viên cũng như học sinh để bắt buộc giáo viên phải có sự đầu tư, tìm tòi hơn nữa đối với công tác dạy và học. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi được rút ra và thực hiện trong quá trình giảng dạy . Có thể bài viết không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp,giáo viên giảng dạy phương pháp toán để bản thân tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Húa, ngày 5 thỏng 4 năm 2013 Tụi xin cam đoan đõy là SKKN của mỡnh viết, khụng sao chộp nội dung của người khỏc. Lờ hị Quyờn

File đính kèm:

  • doctoan loi van 2- ythuy.doc
Giáo án liên quan