Hỏi đáp về địa lí (THCS)

 Tập Hỏi – Đáp về Địa lí này được biên soạn nhằm cung cấp cho các bạn giáo viên dạy địa lí ở THCS có thêm một tài liệu tham khảo bổ sung cho những nội dung của sách giáo khoa chưa trình bày được kĩ càng và đầy đủ.

 Những hiện tượng địa lí xảy ra trong thiên nhiên và đời sống xã hội rất phong phú và đa dạng. Tập sách này chỉ mới tập hợp và giải đáp được một phần rất nhỏ những câu hỏi mà một số bạn giáo viên đã nêu ra.

 Những câu hỏi này đều có liên quan đến các chương trình học ở THCS, một phần thuộc địa lí đại cương, một phần khác thuộc địa lí thế giới và địa lí Việt Nam. Tuy nhiên việc phân chia một cách dứt khoát các câu hỏi đó ra từng phần riêng rẽ để giải đáp lại là một việc rất phức tạp. Có nhiều câu hỏi, mặc dù có nội dung địa lí đại cương, nhưng khi cụ thể hóa chúng trên một lãnh thổ nhất định thì lại trở thành những câu hỏi về địa lí thế giới hay Việt Nam.

 

doc54 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3180 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hỏi đáp về địa lí (THCS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành thị, tạo điều kiện đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa nông thôn và thành thị trong quá trình phát triển. HỎI: Chính sách dân số là gì? Những nội dung cơ bản của chính sách dân số của Đàng và Nhà nước ta? ĐÁP: Chính sách dân số là thuật ngữ được dùng trong các tài liệu khoa học để chỉ hướng của chính sách kinh tế - xã hội nhằm tác động vào sự phát triển dân số. Chính sách này xây dựng trên cơ sở nhận thức các quy luật phát triển dân số như là một bộ phận hợp thành của sự phát triển xã hội. Nội dung của chính sách dân số chủ yếu gồm: 1. Việc tác động tới tái sản xuất dân cư 2. Việc tác động đến quá trình xã hội hóa các thế hệ đang trưởng thành, trước hết tạo vốn tri thức và giáo dục thế hệ trẻ. 3. Hoàn thiện các điều kiện lao động 4. Kiện toàn hệ thống tiền lương và các nguồn thu nhập khác, điểu chỉnh việc chuyển cư và cơ cấu lãnh thổ của dân cư. 5. Tác động đến các điều kiện sống của mọi tầng lớp nhân dân (ăn, ở, y tế, dịch vụ công cộng) Để tiến hành chính sách dân số có 3 nhóm biện pháp: kinh tế - xã hội, pháp lệnh và giáo dục. Mối tương quan giữa chúng tiêu biểu cho những hướng cụ thể của chính sách dân số. Những nội dung cơ bản của chính sách dân số của Đảng và Nhà nước ta là: - Giảm nhanh sự tăng dân số bằng việc thực hiện chính sách mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh từ 1 đến 2 con. - Nâng cao chất lượng con người cả về thể chất lẫn trình độ, qua việc nâng cao mức sống, giáo dục và đào tạo, trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất. - Phân công và phân bố lại lao động một cách hợp lí nhầm khai thác các thế mạnh về kinh tế ở miền núi, miền biển, miền đồng bằng và cả ở các đô thị cũng như hợp tác quốc tế về mặt lao động. - Cải tạo và xây dựng mới nông thôn, thúc đẩy hoá trình đô thị hoá trên cơ sở phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự diễn biến của môi trường. Chính sách dân số đó của Đảng và Nhà nước ta nhầm năng cao chất lượng cuộc sống của mỗi gia đình người dân và của toàn xã hội. Việc thực hiện chính sách đó đòi hỏi phải tiến hành một cách kiên trì, sử dụng một hệ thống tổng hợp nhiều biện pháp bao gồm cả việc tuyên truyền giáo dục rộng rãi, thực hiện các biện pháp kĩ thuật và cả việc ban hành các chính sách xã hội thích hợp, các pháp lệnh và biện pháp hành chính… HỎI: Hiểu như thế nào cho chính xác thuật ngữ “kế hoạch hóa gia đình” (KHHGĐ). ĐÁP: KHHGĐ theo nghĩa hẹp là việc điều chỉnh số con sinh ra trong nội bộ một gia đình. Đó là việc thông qua những quyết định tự nguyện của cặp vợ chồng về quy mô gia đình, nhất là về số con và khả năng thực hiện những quyết định ấy. Cơ sở đạo đức, luật pháp của KHHGĐ là việc cha mẹ tự giác xác định nhiệm vụ làm cha, làm mẹ, số con cần có trong gia đình và khoảng thời gian cách nhau giữa các lần sinh. KHHGĐ giúp cho các bậc cha mẹ có được số con như ý muốn, lựa chọn được thời gian sinh đẻ có tình đến dộ tuổi của cha mẹ, các điều kiện kinh tế - xã hội, điều chỉnh khoảng cách giữa các lần sinh , loại trừ việc có thai ngoài ý muốn. KHHGĐ hiện nay thường được hiểu là việc sử dụng các biện pháp tránh thai để điều khiển hành vi sinh đẻ, đồng thời bao gồm cả công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. KHHGĐ không phải chỉ có ở nước ta mà đã trở thành một chương trình quan trọng phổ biến rộng rãi ở các nước đang phát triển từ những năm 60 của thế kỉ này. HỎI: Thế nào là nền kinh tế đang ở bước đi ban đầu của quá trình công nghiệp hóa? ĐÁP: Mặc dù nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên nhiệt đới đa dạng, nguồn lao động dồi dào, nhưng hiện tại nền kinh tế nước ta vẫn còn ở tình trạng lạc hậu, phát triển chậm và chưa ổn định. Cơ thể giải thích bằng nhiều nguyên nhân như chế độ thực dân phong kiến thống trị lâu dài, chiến tranh tàn phá nặng nề, những tai biến do thiên nhiên gây ra: nhưng nguyên nhân cựckì quan trọng là công cụ sản xuất của ta còn thô sơ, dụng cụ máy móc trong sản xuất nông nghiệp, trong công nghiệp, giao thông vận tải vv… đã cũ kĩ, lạc hậu so với các nước trên thế giới. Vì vậy, công nghiệp hóa hiểu nôm na là phải khẩn trương trang bị máy móc mới, hiện đại cho tất cả các ngành sản xuất, để nâng cao năng suất lao động, có sản lượng nhiều, chất lượng hàng hóa tốt, giá thành hạ, thỏa mãn nhu cầu của sinh hoạt và xây dựng kinh tế. Tuy nhiên vừa mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nước ta còn nghèo, đặc biệt là thiếu vốn nghiêm trọng, cho nên phải công nghiệp hóa từng bước, không thế ồ ạt ngay một lúc mà phải chọn ngành nào là trọng tâm thì tiến hành trước, các ngành khác sẽ đi theo sau. Chính ví thế nên nền kinh tế của nước ta “đang ở bức đi ban đầu”. HỎI: Nền kinh tế có cơ cấu đa dạng khác với đơn điệu như thế nào? Vì sao phải xây dựng nền kinh tế có cơ cấu đa dạng? ĐÁP: Trước cách mạng tháng Tám, nước ta là nước phong kiến nửa thuộc địa. Nền kinh tế rất lạc hậu. Nông dân chiếm tỉ trọng dân cư lớn, nhưng bị áp bức, bóc lột nên đời sống cơ cực. Hơn nữa, bọn thực dân không bao giờ muốn phát triển kinh tế ở các thuộc địa, vì vậy người dân chỉ có một con đường là sản xuất lương thực để giải quyết cái ăn, giải quyết nạn đói triền miên. Chính vì thế cho nên nhân dân ta chỉ chú trọng tới nông nghiệp. Trong nông nghiệp cũng chỉ chú trọng trồng cây lương thực. Công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại thì phiến diện,què quặt và thấp kém. Ngày nay, trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập, muốn nâng cao được đời sống của nhân dân thì chúng ta phải khắc phục, xóa bỏ cơ cấu sản xuất đơn điệu, xây dựng một nền kinh tế có cơ cấu đa dạng, nghĩa là có đủ nông nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, dịch vụ … Trong công nghiệp cũng phải phát triển cả công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và công nhiệp thực phẩm. Trong nông nhiệp phải phát triển trồng cây lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản đặc sản, giao thông vận tải phải khai thác cả đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Bên cạnh đó, cơ cấu đa dạng còn thể hiện ở chỗ nhiều thành phần cùng tham gia sản xuất. Đó là quốc doanh tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư doanh và kinh tế gia đình vv… HỎI: Khối lượng sản phẩm là gì? Có thể căn cứ khối lượng sản phẩm để đánh giá mức độ phát triển kinh tế của một nước không? ĐÁP: Một nền kinh tế phát triển hoàn chỉnh là phải có đầy đủ các ngành sản xuất từ công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại dịch vụ và sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho mọi nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Ví dụ: ngành vật liệu xây dựng sản xuất hàng triệu tấn xi măng phục vụ xây dựng; ngành dệt sản xuất hàng triệu mét vải cho tiêu dùng. Tất cả những sản phẩm đó do nước ta sản xuất ra được gọi là khối lượng sản phẩm. Rõ ràng, người ta có thể căn cứ vào khối lượng sản phẩm để đánh giá mức độ paht1 triển kinh tế của một nước. Dễ dàng nhận thấy khi nước này khai thác mỗi năm được 10 triệu tấn than và sản xuất được 10 tỉ KWh điện thì mức độ phát triển kinh tế sao bằng một nước khác mỗi năm khai quát được 700 triệu tấn than và 3000 KWh điện. Đương nhiên sự so sánh đó cũng chỉ mới có giá trị hết sức tương đối. Để đánh giá được mức độ phát triển kinh tế của một quốc gia còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố và chỉ tiêu khác nữa như lịch sử phát triển kinh tế, bối cảnh sản xuất và bình quân đầu người của từng loại sản phẩm vv… HỎI: Trong nông nghiệp hiện nay thường nói đến khoán sản phẩm đến tận người lao động. Vậy xuất xứ của khoán sản phẩm là như thế nào? ĐÁP: Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng ruộng đất, người nông dân đã có ruộng, có tổ chức sản xuất là hợp tác xã (HTX). Tuy nhiên, vì chưa có kinh nghiệm, nên có nơi, có lúc HTX sản xuất trì trệ, năng suất lao động, năng suất sản xuất thấp. Thêm vào đó là những tai biến do thiên tai, nên đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Nhiều nơi nông dân quay lưng lại với đất đai, thờ ơ với tư liệu sản xuất. Trong thời gian dài, nông nghiệp chưa làm tròn nhiệm vụ kích thích nền kinh tế phát triển và giải quyết cái ăn cho nhân dân cả nước. Xuất phát từ đó, Bộ Chính trị ra NQ 10 về việc khoán sản phẩm đến tận tay người lao động. Nội dung chủ yếu là giao ruộng cho nông dân sử dụng trong một thời gian dài. Người nông dân sử dụng diện tích ruộng được khoán, mỗi vụ chỉ nộp cho hợp tác xã một số lượng nông sản nhất định. Nếu năng suất cao, dôi ra bao nhiêu thì được hưởng bấy nhiêu. Từ đó, nông dân phấn khởi sản xuất và đó là một trong những nguyên nhân làm cho nước ta trước vốn thiếu lương thực nhưng từ năm 1990 đến nay, mỗi năm đã xuất khẩu được hàng triệu tấn gạo. HỎI: Vì sao phải coi trọng xuất khẩu, khả năng xuất khẩu của nước ta như thế nào? ĐÁP: Xuất khẩu là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Xuất khuẩ có nghĩa là ta bán ra nước ngoài những sản phẩm sản xuất dư thừa trong nước hoặc những sản phẩm đặc sản mà nhiều nước trên thế giới ưa chuộng để có ngoại tệ mạnh mua thiết bị máy móc hiện đại, nhầm đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa của nước ta. Cùng với nhập khẩu, xuất khẩu tạo nên sự cân bằng trong cán cân thương mại. Và nếu xuất khẩu cao hơn nhập khẩu thì diều đó chứng tỏ khả năng phát triển nền kinh tế của một quốc gia. Ngược lại, nếu xuất khẩu thấp hơn nhập khẩu thì nước đó sẽ mang nợ triền miên. Chính vì vậy nước ta rất coi trọng xuất khẩu. Mặt khác, khả năng xuất khẩu của nước ta rất to lớn. Trước mắt là xuất khẩu một số tài nguyên như khoáng sản, nông sản, lâm sản, hải sản nhiệt đới … Nhưng lâu dài, chúng ta phỉ đẩy mạnh việc chế biến các nguyên liệu, xuất khẩu thành phẩm. Có thế chúng ta mới giải quyết được vấn đề thừa lao động và làm tăng giá trị các nguồn tài nguyên quý giá của nước ta. Muốn xuất khẩu được nhiều hàng hóa, nhất thiết chúng ta phải đưa tiến bộ khoa học – kĩ thuật vào sản xuất, đổi mới các trang thiết bị hiện đại, cải tiến việc quản lí kinh tế và quan trọng hơn cả là phải tạo được một nguồn vốn cần thiết ban đầu. MỤC LỤC Trang Các câu hỏi – đáp về địa lí đại cương Các câu hỏi – đáp về địa lí thế giới Các câu hỏi – đáp về địa lí tự nhiên Việt Nam Các câu hỏi – đáp về dân số và địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam - Đánh máy: Nguyễn Lan Quỳnh Nhi, Nguyễn Phúc Huỳnh Hương (Phần Địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam)

File đính kèm:

  • docHoi dap ve Dia ly.doc