Giáo án Ngữ Văn Lớp 7 - Tiết 52: Chương trình địa phương - Năm học 2011-2012

Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông.

Cả ba cuốn Thanh Hiên thi tập (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long), Nam trung tạp ngâm (1805-1812, khi Nguyễn Du làm quan ở Huế rồi cai bạ Quảng Bình) và Bắc hành tạp lục (1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa) đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm.

- Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Một hình ảnh trở đi trở lại là mái tóc bạc, Nguyễn Du có mái tóc bạc sớm, mái tóc như biểu tượng của lo nghĩ, của những nghiền ngẫm buồn thương và bế tắc "Tráng sỹ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên", (Tráng sỹ ngẩng mái đầu tóc bạc, bi thương than với trời xanh: chí lớn một đời và miếng ăn hàng ngày cả hai đều mờ mịt). Với một tài năng, lại từng là con quan tể tướng, lời than ấy thật xót xa.

 

doc5 trang | Chia sẻ: thiennga98 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ Văn Lớp 7 - Tiết 52: Chương trình địa phương - Năm học 2011-2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tg văn học ở địa phương và các tác phẩm văn học viết về địa phương trước 1975 . - Biết đầu biết thẩm bình và biết được công dụng tuyển chọn tác phẩm văn học . 1. Kiến Thức : - Cách tìm hiểu về các nhà văn , nhà thơ ở địa phương . - Cách tìm hiểu về tác phẩm thơ văn viết về địa phương . 2. Kĩ năng : - Sưu tầm , tuyển chọn tài liệu văn thơ viết về địa phương . - Đọc – hiểu và thẩm bình thơ văn viết về địa phương . - Biết cách thống kê tài liệu , thơ văn viết về địa phương . 3. Thái độ : Có thái độ trân trọng các tác phẩm thơ văn của các nhà văn , nhà thơ ở địa phương . B. Chuẩn bị : - Giáo Viên : Giáo án , Sách ngữ văn địa phương - Học Sinh : Tài liệu ngữ văn địa phương , tìm hiểu tác giả , tác phẩm C. Tiến trình lên lớp : Hoạt động 1 : Khởi động - Mục tiêu:Tạo tâm thế và định hướng chú ý cho hs - Phương pháp: Thuyết trình 1. Ổn định tổ chức : Kiểm tra sĩ số 2.Kiểm tra bài cũ : GV kiểm tra sự chuẩn bị của h/s 3. Bài mới : GV giới thiệu sơ lược về chương trình địa phương phần văn . HỌAT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN ĐẠT Hoạt Động 1 : Tìm hiểu bài . Mục tiêu : HS nắm được một số tác giả- tác phẩm tiêu biểu ở địa phương Phương pháp : Vấn đáp, thảo luận Em hiểu như thế nào về địa phương ? Học sinh dựa vào phần tư liệu chuẩn bị sẵn giới thiệu về tg ( Giáo viên gọi khoảng 2-3 học sinh phát biểu bổ sung). Giáo viên : kết lại bằng những kiến thức chính phần ghi bảng. GVH : Hãy kể tên một số tác phẩm của ông ? I. Giới thiệu tác giả – tác phẩm. - Gồm những nhà văn, nhà thơ nỗi tiếng sinh sống ở địa phương hoặc sinh sống nơi khác * Địa phương : Có thể xác định ở hai cấp độ : - Viết về địa phương nơi mình sinh ra - Viết về nơi ở hiện tại xem như quê hương thứ hai của mình 1.Xuân Diệu (2/2/1916 -18 /12/1985), Đại Lộc- Can Lộc Hà Tĩnh 2. Nguyễn Du (1765- 1820), Tiên Điền - Nghi Xuân - Hà Tĩnh 3. Chính Hữu (1926 - 2007) , Tên thật: Trần Đình Đắc, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926, Can Lộc, Hà Tĩnh 4. Huy Cận (1919 - 2005) Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, Hương Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. 5. Nguyễn Công Trứ (1778-1858) Ông là người làng Uy Viễn nay là xã Xuân Giang-Nghi Xuân-Hà Tĩnh. Xuân Diệu (2 /2/1916 - 18 /12/1985) - Là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Những bài được yêu thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 - 1944, thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, ông được mệnh danh là "ông hoàng thơ tình". - Sau khi theo đảng (1945), thơ ông chủ yếu ca ngợi Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh, thơ tình của ông không còn được biết đến nhiều như trước. - Ngoài làm thơ, Xuân Diệu còn là một nhà văn, nhà báo, nhà bình luận văn học. 2. Nguyễn Du (1765- 1820), Tiên Điền - Nghi Xuân - Hà Tĩnh - Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông. Cả ba cuốn Thanh Hiên thi tập (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long), Nam trung tạp ngâm (1805-1812, khi Nguyễn Du làm quan ở Huế rồi cai bạ Quảng Bình) và Bắc hành tạp lục (1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa) đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm. - Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Một hình ảnh trở đi trở lại là mái tóc bạc, Nguyễn Du có mái tóc bạc sớm, mái tóc như biểu tượng của lo nghĩ, của những nghiền ngẫm buồn thương và bế tắc "Tráng sỹ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên", (Tráng sỹ ngẩng mái đầu tóc bạc, bi thương than với trời xanh: chí lớn một đời và miếng ăn hàng ngày cả hai đều mờ mịt). Với một tài năng, lại từng là con quan tể tướng, lời than ấy thật xót xa. 3. Chính Hữu (1926 - 2007) , - Tên thật: Trần Đình Đắc, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926, đồng hương Can Lộc, Hà Tĩnh với Xuân Diệu. - Chính Hữu đi học ở Hà Nội và tham gia kháng chiến chống Pháp từ Hà Nội. Ông viết ít mà chắc khỏe, tiết kiệm ngôn từ. Thơ ông được chú ý vì tiết tấu, nhịp điệu linh hoạt. - Nguồn cảm hứng lớn trong thơ Chính Hữu là cuộc đời người chiến sĩ, là Tổ quốc VN gian lao mà anh dũng trong các cuộc chiến tranh giải phóng. Tác phẩm tiêu biểu: Đồng chí, Sáng hôm nay, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Thư nhà,.. 4. Huy Cận (1919 - 2005) - Ông sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, Hương Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn. - Tháng 8 năm 1945, Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ Lâm thời (gồm Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận) đi vào Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại. - Ông làm Bộ trưởng Bộ Canh nông khi mới 26 tuổi.Sau này thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin. Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới. - Làm thơ từ 1934, đăng thơ từ năm 1936. Là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lý. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của "đêm mưa", của "người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật đèo cao", của "trời rộng sông dài". Hoạt động 2: Mục tiêu: HS nắm được một số tác phẩm và đôi nét về nội dung , nghệ thuật Phương pháp: Đọc sáng tạo, thảo luận GV g ọi h/s đọc bài thơ, bài văn đã sưu tầm GV chia nhóm thảo luận các tác phẩm đã sưu tầm II. Đọc các bài thơ, bài văn 1. Học sinh đọc 2. Nội dung, nghệ thuật Gửi hương cho gió Xuân Diệu Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phụ phàng! Mất một đời thơm trong kẽ núi Không người du tử đến nhằm hang! Hoa ngỡ đem hương gửi gió Kiều, Là truyền tin thắm gọi tình yêu. Song le hoa đợi càng thêm tủi Gió mặc hồn hương nhạt với chiều. Tản mác phương ngàn lạc gió câm, Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm; Tên rừng hoa đẹp rơi trên đá, Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm. Tình yêu muôn thuở vẫn là hương; Biết mấy dòng thơm mở giữa đường Đã mất tình yêu trong gió rủi Không người thấu rõ đến nguồn hương! Thiên hạ vô tình nhận ước mơ Nhận rồi không hiểu mộng và thơ... Người si muôn kiếp là hoa núi, Uổng nhuỵ lòng tươi tặng khách hờ.[RIGHT][B]Nguồn[/B]: Diendan.Eva.Vn[/RIGHT]. Đồng chí Chính Hữu Quê hương anh nước mặn đồng chua  Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá  Anh với tôi đôi người xa lạ  Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.  Súng bên súng, đầu sát bên đầu  Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ  Đồng chí!  Ruộng nương anh gửi bạn thân cày  Gian nhà không mặc kệ gió lung lay  Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.  Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,  Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.  Áo anh rách vai  Quần tôi có vài mảnh vá  Miệng cười buốt giá  Chân không giày  Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!  Đêm nay rừng hoang sương muối  Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới  Đầu súng trăng treo. Bài ca ngất ngưỡng Nguyễn Công Trứ Vũ trụ nội mạc phi phận sự, Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Lúc bình Tây, cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiện Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngượng Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bị Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người tái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không Phật, không tiên, không vướng tục. Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú, Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Trong triều ai ngất ngưởng như ông ! Đồng chí của Chính Hữu là một bài thơ hay trong kháng chiến chống Pháp, ra đời năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Vẻ đẹp của bài thơ gắn liền với hình tượng giản dị mà cao cả của người chiến sĩ vệ quốc xuất thân từ nông dân, có sức chinh phục trái tim của bạn đọc nhiều thế hệ. Bài ca ngất ngưỡng * Nội dung: Nghĩa thực của từ “ngất ngưởng” là : Trạng thái của một đồ vật có chiều cao trong tư thế ngả nghiêng, không vững chắc, lúc lắc, chông chênh, gây khó chịu cho mọi người ) “Ngất ngưởng” chính là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi “khắc kỉ, phục lễ” của nhà nho để hình thành một lối sống thật hơn, dám khẳng định chính mình, khẳng định bản lĩnh cá nhân bắt nguồn từ ý thức về tài năng và nhân cách của bản thân. => Đó chính là nội dung xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, làm nổi bật cá tính con người ông. Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách cảu bản thân, NCT trong “bài ca ngất ngưởng” đã phô trương, khoe sự ngang tàng, sự phá cách trong lối sống của ông, lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho. Ngất ngưởng chính là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi “khắc kỉ, phục lễ” của nhà nho để hình thành một lối sống, thật hơn, dám là chính mình, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân Ngất ngưởng đối lập với lễ, danh giáo. * Nghệ thuật: Hệ thống từ Hán Việt uy nghiêm trang trọng, âm điệu nhịp nhàng, khẳng định tài năng lỗi lạc, địa vị xã hội vẻ vang, xứng đáng và nhiều điệp ngữ một con người xuất chúng. Hoạt động 3: GV tổng kết tiết học - GV nhận xét ưu điểm, khuyết điểm kết quả bài tập của h/s Họat Động 4 : Củng cố – Dặn dò ? Những nét chính về tác giả - Học thuộc các bài thơ trên. - Sọan : Dấu ngoặc kép.

File đính kèm:

  • docGiao an Ngu van 7 20132014 Chuong trinh dia phuong Ha Tinh(1).doc