Đề tài Nâng cao chất lượng giảng dạy tuyến kiến thức "Giải toán có lời văn" Ở lớp 1

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc và sự thách thức trớc nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới cơ bản về phơng pháp dạy học. Những phơng pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự t duy của học sinh đợc đặc biệt chú ý. Mục tiêu giáo dục của Đảng đã chỉ rõ:“. Đào tạo có chất lợng tốt những ngời lao động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông và hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ tốt.”. Muốn đạt đợc mục tiêu này thì dạy và học Toán trong trờng phổ thông là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Cố thủ tớng Phạm Văn Đồng cũng nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán:“ Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện phơng pháp suy nghĩ, phơng pháp suy luận, phơng pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Nó còn giúp chúng ta rèn luyện nhiều đức tính quý báu khác nh: Cần cù và nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vợt khó, yêu thích chính xác, ham chuộng chân lý.”

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng giảng dạy tuyến kiến thức "Giải toán có lời văn" Ở lớp 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c) Trình bày bài giải    Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của t duy. Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn nh sau: Bài giải Nhà An có tất cả là: 5   +   4   =   9 ( con gà ) Đáp số : 9 con gà    Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9 (con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà"). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm mà lại gặp phải các từ khó nh "thuyền, quyển, ..." thì có thể lợc bớt danh từ cho nhanh.    Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại đợc dặt trong dấu ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con gà đợc. Do đó, nếu viết: "5 + 4 = 9 con gà" là sai. Nói cách khác , nếu vẫn muốn đợc kết quả là 9 con gà thì ta phải viết nh sau mới đúng: "5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các danh số đầy đủ nh vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai nh sau:                              5 con gà + 4 = 9 con gà                              5 + 4 con gà = 9 con gà                              5 con gà + 4 con gà = 9    Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ đợc viết 5 + 4 = 9 thôi.    Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính giải nên vẫn phải tìm cách để đa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc ở đây chỉ có một sự ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Do đó, nên hiểu: 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết của một câu văn hoàn chỉnh nh sau: "5 + 4 = 9, ở đây 9 là 9 con gà". Nh vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. Trong đáp số của bài giải toán thì không có phép tính nên ta cứ việc ghi: "Đáp số : 9 con gà"  mà không cần ngoặc đơn. d) Kiểm tra lại bài giải    Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thờng có thói quen khi làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này.  Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.  3.2/ Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn"    Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. ở mỗi bài, mỗi tiết về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy t duy, trí tuệ, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh bằng việc hớng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tự đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho trớc, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm (...), đặt câu hỏi cho bài toán.    Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài toán đó:    Bài toán: Dới ao có ... con vịt, có thêm ... con vịt nữa chạy xuống. Hỏi ..........................................................................?  Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:    Có                   :       7  hình tròn    Tô màu           :        3  hình tròn    Không tô màu : .......... hình tròn? 3.3/ Một số phơng pháp thờng sử dụng trong dạy:  "Giải bài toán có lời văn" ở lớp Một.    a) Phơng pháp trực quan    Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 thờng sử dụng phơng pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ … giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó tìm ra đờng lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 1 có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Nh vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra đợc cách giải bài toán. Trong những trờng hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phơng pháp trực quan.    b) Phơng pháp hỏi đáp (đàm thoại)    Sử dụng khi hớng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đờng lối giải, chữa bài làm của học sinh ...    c) Phơng pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.    Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phơng pháp dạy học này.    ở mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những bài toán có vấn đề. Chẳng hạn bài toán “bớt” trở thành bài toán tìm số hạng, bài toán “thêm” trở thành bài toán tìm số trừ.    Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải.    Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phơng pháp khác để giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài nh : Phơng pháp thảo luận nhóm, phơng pháp kiến tạo ... III/ Kết quả kiểm chứng    - Năm học 2003 - 2004: Dạy bình thờng theo khả năng và  thực tế, đồng thời tìm hiểu, tập hợp số liệu, thực hiện 3 lần kiểm tra khảo sát.    - Năm học 2004 - 2005: áp dụng kinh  nghiệm vào thực tế giảng dạy và tiếp tục tìm hiểu và bổ xung những kinh nghiệm thu đợc, thực hiện 3 lần kiểm tra khảo sát.    - Năm học 2005 - 2006: Tiếp tục áp dụng kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy, thực hiện 3 lần kiểm tra khảo sát. Bảng kết quả kiểm chứng (Qua ba năm thực nghiệm áp dụng kinh nghiệm) Năm học Sĩ số lớp Kết quả thu đợc qua 3 lần kiểm tra khảo sát cuối năm Biết tóm tắt đề bài phù hợp Đặt câu lời giải phù hợp Làm phép tính và ghi danh số Ghi đáp số đúng, đủ 03 - 04 30 54/90 = 60,0% 61/90 = 67,7% 82/90 = 91,1% 82/90 = 91,1% 04 - 05 29 78/87 = 89,6% 75/87 = 86,2% 76/87 = 87,3% 75/87 = 86,2% 05 - 06 29 82/87 = 94,2% 83/87 = 95,4% 84/87 = 96,5% 83/87 = 95,4%    Phân tích kết quả:    Nhìn bảng kết quả có thể nhận thấy tỷ lệ học sinh biết đặt phép tính và tính đúng, biết ghi đáp số đúng ngay từ khi cha áp dụng kinh nghiệm tơng đối cao và đồng đều. Dễ thấy số học sinh cha biết tóm tắt đề toán, số học sinh cha biết viết câu lời giải năm học 2003 – 2004 và năm học 2004 – 2005 thấp hơn nhiều so với năm học 2005 – 2006. Một số sai sót mà học sinh thờng mắc phải là:    - Không biết tóm tắt hoặc tóm tắt không đúng.    - Viết lời giải lung tung, không phù hợp với phép tính.    - Ghi danh số ở phép tính và đáp số còn sai hoặc thiếu.    - Trình bày bài giải cha đẹp, cha khoa học.    Qua tổng hợp kết quả 3 lần kiểm tra khảo sát ở cuối năm học 2004 – 2005 (với đề bài tơng tự nh các năm học trớc), số học sinh còn sai sót là rất ít. {z{ & Phần iii: kết luận và bài học kinh nghiệm    Không có phơng pháp dạy học nào là tối u hay vạn năng, chỉ có lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của ngời thầy với nghề nghiệp là mang lại kết quả cao trong giảng dạy, là chiếc chìa khoá vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa học vì một ngày mai tơi sáng. Đó là vinh dự và trách nhiệm của ngời giáo viên. Đó cũng là duyên nợ của ngời thầy. Duyên nợ với ngời, với nghề và nợ với mênh mông biển học. Trong khuôn khổ hạn hẹp của sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi chiêm nghiệm, trăn trở bằng một tình yêu nghề nghiệp, hy vọng nó sẽ cùng các bạn đồng nghiệp gần xa trao đổi để hoàn thành xứ mệnh vẻ vang mà Đảng và nhà nớc trao cho nghề thầy giáo.    Đối với học sinh lớp Một, các em thực sự là những mầm cây còn rất non nớt, để có đợc một cây to, cây khoẻ, mỗi giáo viên dạy lớp Một ngoài việc uốn nắn , buộc tỉa phải biết chăm sóc để các em đợc phát triển một cách toàn diện. Làm tốt việc dạy “Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1” sẽ góp phần vô cùng quan trọng để phát triển trí tuệ cho các em một cách tổng hợp. Từ đó các em sẽ có một nền tảng vững chắc để học các môn học khác và tiếp tục học lên các lớp trên. 1)    Bài học kinh nghiệm:    - Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chơng trình, cấu trúc sách giáo khoa về “Giải toán có lời văn” ở lớp Một để xác định đợc trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh cái gì, dạy nh thế nào?    - Đối với học sinh tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp Một, cần coi trọng sử dụng trực quan trong giảng dạy nói chung và trong dạy “Giải toán có lời văn” nói riêng, tuy nhiên cũng không vì thế mà lạm dụng trực quan hoặc trực quan một cách hình thức.    - Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một không thể nóng vội mà phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỷ mỉ, nhng cũng rất cơng quyết để hình thành cho các em một phơng pháp t duy học tập đó là t duy khoa học, t duy sáng tạo, t duy lô gic. Rèn cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong “Giải toán có lời văn”.    - Vận dụng các phơng pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.    2) Những vấn đề hạn chế còn tồn tại:    Thực tế cho thấy chơng trình môn toán lớp Một còn nặng ở một số bài, một số tiết về “Giải toán có lời văn” . Phần thời gian dành cho “Giải toán có lời văn” thờng ở cuối tiết nên đôi khi bị phần trên lấn sang, làm cho nội dung này phải thực hiện một cách vội vàng, cha thoả đáng.    Còn có vớng mắc về từ ngữ đối với học sinh lớp Một nên cũng là một khó khăn trở ngại đối với giáo viên trong dẫn dắt gợi mở cho học sinh.    Lời kết: Ngời xa nói: “Ngôn dị – hành nan”, nói dễ làm khó. Tuy vậy tôi khẳng định với các bạn đồng nghiệp: Trên đây là những điều hết sức tâm huyết mà tôi đã thực hiện và thu đợc những kết quả rất khả quan trong hơn 3 năm học vừa qua. Chúng tôi rất mong phòng giáo dục Lý Nhân tạo điều kiện tổ chức cho chúng tôi những buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm với những chuyên đề thiết thực về “Giải toán có lời văn” ở lớp Một để bổ trợ cho chúng tôi vốn kinh nghiệm chuyên môn, góp phần nâng cao chất lợng dạy và học theo tinh thần đổi mới.                                                    Xin trân trọng cảm ơn!  {z{ &

File đính kèm:

  • docSKKNToan1.doc
Giáo án liên quan