Đề tài Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 7 học tốt từ vựng

Hiện nay, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ phổ biến trên toàn thế giới và hơn bốn mươi quốc gia sử dụng nó như một ngôn ngữ chính và gần 400 triệu người dùng nó như một ngôn ngữ thứ hai trong giao tiếp. Ở Việt Nam, tiếng Anh được xem là một ngoại ngữ chính trong các trường phổ thông hiện nay .

Là giáo viên dạy bộ môn Tiếng Anh, chúng tôi luôn mong muốn học sinh của mình có thể hiểu bài một cách nhanh nhất, chủ động nhất, đặc biệt các em có thể vận dụng những kiến thức đã học vào giao tiếp thực tế. Muốn vậy, chúng ta cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho mỗi tiết lên lớp học sinh đều hứng thú học tập tích cực rèn luyện và nhớ được bài ngay tại lớp.

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1787 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 7 học tốt từ vựng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cá nhân. - Bước 3: “đọc”, bạn viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực mà bạn cho là đạt yêu cầu. - Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở. - Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt. - Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu. - Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học. * Trong khi dạy từ mới phải ghi nhớ các điểm sau: Nên giới thiệu từ trong từng mẫu câu cụ thể. Ở những tình huống giao tiếp khác nhau, giáo viên có thể kết hợp việc làm đó bằng cách thiết lập được sự quan hệ giữa từ cũ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục. Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ bằng cách cho các em viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được toàn bộ học sinh ở lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ cho học sinh vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế giúp các em nhớ từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao. Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất, nhanh nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em đọc được, viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế. * Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà: Thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình các em phải tự tổ chức hoạt động học tập của mình. Vì thế, ngay từ đầu từ năm học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà thật hiệu quả. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. 3. Giáo án minh họa : Unit 12 : Lesson 1 - A1 Date: / / 2009 Period 73: Aim: After learning the lesson, Ss can Identify kinds of food: meat, vegetables, fruit and they can talk about food: like and dislike. Language contents: 1/ Grammar: Review the simple past, present tense 2/ Vocabulary: pork, cucumber, spinach, pineapple, papaya, durian Techniques: Chatting Slap the board Networks Teaching aids: Cassette, tape, sub- board, pictures Procedures: T’s and Ss’ activities Content T has Ss write the networks. Ss practice in groups. T corrects. T asks some questions. Ss answer. T introduces new lesson. T presents new words by using real objects and pictures. T says in English, and then write each word on the board. Ss listen, repeat and then copy down. T checks Ss’ vocabulary by guiding them to play a game. Ss play game in two groups. T presents grammar points by giving some examples . Ss observe, listen and copy down. T turns on the tape. Ss listen . Ss practice in pairs to take the roles. Some pairs practice the dialogue in front of class. T has Ss read the dialogue in silent . Ss work in groups to write a list. T corrects and gives keys. T has Ss match the words in column A with their meanings in column B. Ss match. T corrects and gives marks for them. T gives the homework and guides Ss to do exercises. Ss listen and take notes. 1/ Warm up: (5M) Networks: vegetables fruit Chatting: - Do you often go to the market with your Mom? - Which fruit / vegetables / meat do you like? 2/ Presentation:(15M) Pictures / real objects New words: - pork (n) - cucumber (n) - spinach (n) - pineapple (n) - papaya (n) - durian (n) - (to) smell / smelt - (to) hate - ripe (adj) # green (adj) Slap the board Pictures Grammar: Neither/ not ... either : (adv) Ex: I don’t like pork. - I don’t like pork , either . / I don’t, either . - Neither do I. So / too : Ex: I like pineapple. I like pineapple, too. / I do, too. So do I . 3/ Practice: (15M) A.1/ page 114,115 Dialogues Keys: Hoa and her aunt (They) bought beef, spinach, cucumbers and oranges. 4/ Production:(7M) Marks Matching: A B 1. pineapple 2. grapefruit 3. durian 4. strawberry 5. papaya 6. longan 7. water- melon 8. mango a. đu đủ b. bưởi c. xoài d.dứa, khóm e.dâu f. nhãn g.sầu riêng h. dưa 5/ Homework:(3M) - Learn new words and grammar. - Do exercises A1, A2 / p.74 in workbook. - Prepare : Unit 12 - A2, A4 6/ Comments: ……………………………………………… ……………………………………………… ……………………………………………… ……………………………………………… ……………………………………………… 4. Kết quả thực hiện: Qua quá trình áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh ngày càng có nhiều tiến bộ về học tập: - Học sinh có hứng thú và tích cực hơn trong mọi hoạt động. - Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. - Học sinh hầu như đã thuộc gần hết các từ mới ngay tại lớp học. - Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt. - Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn. Sau đây là bảng thống kê chất lượng học tập cuả học sinh ở lớp áp dụng đề tài và lớp học không áp dụng đề tài: LỚP TSHS GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU Với kết quả cụ thể trên chúng ta đều thấy rằng chất lượng học tập của học sinh ở lớp 7- lớp có áp dụng đề tài cao hơn hẳn so với các lớp còn lại. Điều đó cho thấy đề tài mà tôi đang nghiên cứu phần nào đã mang lại hiệu quả trong quá trình giảng dạy thực tế . 5. Đánh giá rút kinh nghiệm: Theo phân phối chương trình hiện nay, hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Nếu muốn dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, giáo viên cần phải tìm tranh ảnh, đồ dùng để minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học. Trong một tiết chương trình giáo viên cần lựa chọn 5 - 8 từ để dạy. Các từ này phải thuộc loại hoạt động (active vocabulary) – nghĩa là các từ này học sinh sẽ sử dụng thường xuyên ở trên lớp nhằm rèn luyện các kỹ năng cơ bản. Các từ này cần có tần suất cao nghĩa là chúng xuất hiện thường xuyên trong văn bản. Không nên cho học sinh lặp lại từ quá nhiều lần vì việc lặp lại từ một cách máy móc nhiều lần sẽ không mang lại hiệu quả trong việc tiếp thu bài mà có thể làm cho bài học trở nên nhàm chán và lãng phí sức của học sinh cũng như người dạy. Giáo viên không nên phiên âm các từ mới khi dạy vì trình độ của học sinh còn hạn chế nếu phải học thêm ký hiệu phiên âm học sinh sẽ có thể nhầm lẫn giữa chữ viết và ký hiệu phiên âm của một từ. Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên, giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh. Tôi thực hiện đề tài này chỉ là một phần trong tiết học, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng cho việc thực hành mẫu câu, việc đối thoại có trôi chảy, lưu loát hay không đều phải phụ thuộc vào việc học thuộc lòng từ vựng và phát âm có chuẩn hay không. Nhưng để thực hiện giảng dạy tốt từ vựng, không chỉ cần có sự đầu tư vào bài giảng, vào các bước lên lớp của giáo viên, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của học sinh. C.KẾT LUẬN Trên đây là phương pháp dạy học cùng với thực tế giảng dạy của bản thân tôi. Tôi nhận thấy rằng trong quá trình dạy học, giáo viên cần cố gắng áp dụng các phương pháp một cách linh hoạt sao cho phù hợp với nội dung bài và phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần khéo léo sử dụng các thủ thuật sư phạm nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh và giúp cho các em học tập có kết quả. Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình. Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều nên giáo viên cần khuyến khích và hướng các em tích cực tham gia vào quá trình học tập. Để đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục ở cấp THCS, ngoài những yếu tố ngoại cảnh như chương trình, thời gian, trình độ của học sinh, khả năng chuyên môn của giáo viên. Điều quan trọng nhất là phương thức tổ chức của giáo viên trong một tiết dạy. Để hưởng ứng phong trào đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, với tư cách là một giáo viên dạy bộ môn ngoại ngữ tôi rất mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cùng với các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp xây dựng phương pháp dạy học mới ngày càng chuẩn mực, có hiệu quả hơn giúp cho các em học sinh ngày càng thích học ngoại ngữ, có thể học tập chủ động, giao tiếp tự tin bằng chính khả năng của mình. * Hướng phổ biến, áp dụng đề tài: Sau khi áp dụng thành công đề tài vào thực tế giảng dạy bộ môn Tiếng Anh ở lớp 7, năm học 2008 – 2009, tôi rất mong muốn sáng kiến kinh nghiệm này có thể được phổ biến rộng rãi và áp dụng trong toàn khối 7 hay có thể là cả khối 6 – những lớp mà phần từ vựng chiếm phần lớn nội dung chính của bài học . * Hướng nghiên cứu tiếp của đề tài : Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và bổ sung cho những thiếu sót, hoàn thiện hơn những ưu điểm mà đề tài đã đạt được trong thời gian qua và có hướng phổ biến sáng kiến kinh nghiệm này không chỉ ở các khối lớp 6, 7 của trường THCS Tân An mà có thể nâng lên ở khối 8, 9 nhằm nâng cao chất lượng bộ môn. Tân An, ngày tháng năm 2009 Người thực hiện Voõ Thò Thanh Loan

File đính kèm:

  • docSKKN mon anh.doc
Giáo án liên quan