Đề tài Giúp học sinh viết đúng chính tả ở lớp 5

Chúng ta đều biết rằng: “ Nhân cách của con người chỉ có thể được hình thành thông qua hoạt động giao tiếp”. Tiếng Việt là một ngôn ngữ thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta không chỉ lúc nào cũng giao tiếp bằng ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ viết đóng vai trò quan trọng của Tiếng Việt. Yêu cầu đầu tiên và quan trọng của ngôn ngữ viết là phải viết đúng chính tả.

doc12 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1592 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giúp học sinh viết đúng chính tả ở lớp 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểu học SGK đã xác định được những trọng điểm chính tả cơ bản cần dạy cho học sinh. Các bài tập trong SGK cũng khá đa dạng, phù hợp với từng khối lớp và cấu trúc đi từ dễ đến khó. Tuy nhiên về hạn chế SGK còn đánh đồng nội dung dạy học trong cả nước cho nên có thể nói nội dung dạy chính tả trong SGK Tiếng Việt vừa thừa lại vừa thiếu do chưa sử lý được việc dạy chính tả theo khu vực. Thừa ở các em vừa phải luyện tập ở cả những nội dung mà các em đã biết, không mấy khi sai sót. Thiếu ở chỗ không đủ thời gian để đi sâu hơn, luyện tập nhiều hơn để tránh những lỗi mà các em thường mắc phải. Nội dung chính tả được trình bày trong SGK Tiểu học còn mang tính ngẫu nhiên, chủ quan, áp đặt, không được xây dựng dựa trên sự điều tra khảo sát tình hình chính tả ở từng vùng, từng khu vực. Chính tả trong SGK chưa thống nhất, điều này cũng gây không ít khó khăn cho việc dạy học chính tả ở Tiểu học, đặc biệt ở những vùng phương ngữ. III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Qua kết quả điều tra, khảo sát thực tiễn tôi nhận thấy rằng trọng điểm chính tả mà học sinh lớp tôi mắc phải chính là do lỗi phát âm địa phương không phân biệt được giữa l với n, dấu thanh ~/./ Trước thực tế như vậy, bản thân tôi phải hết sức cố gắng nỗ lực nhiều mặt như: tâm lý học lý luận dạy học, các kiến thức về ngữ âm, về văn học.... làm sao phải để học sinh “tâm phục khẩu phục”. Có như vậy chất lượng giáo dục chính tả vùng phương ngữ mới thu được kết quả như mong muốn. Muốn làm được điều đó, trước hết tôi phải đặt phân môn chính tả nằm trong mối quan hệ giữa các phân môn khác của Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn tập đọc và từ ngữ. Học sinh muốn viết đúng được thì phải hiểu được nghĩa và phát âm đúng từ đó. Nếu học sinh phát âm sai, tuỳ tiện sẽ dẫn đến hiểu sai và viết sai hoặc do thói quen lâu ngày không được sửa chữa. Trong các giờ tập đọc, tôi dành nhiều thời gian hơn cho việc sửa lỗi phát âm cho học sinh, đặc biệt là hai âm l và n, dấu ~ /./. Giáo viên phát âm mẫu cho học sinh học tập và hướng dẫn cách phát âm tỉ mỉ. Đặc biệt tôi không bao giờ được phạm sai lầm về lỗi phát âm này. Nếu không việc sửa lỗi của giáo viên sẽ mất tác dụng. Ngoài ra tôi hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả trên cơ sở hiểu đúng nghĩa của từ. Muốn viết đúng một từ, học sinh phải biết đặt từ đó trong mối quan hệ với cụm từ và các văn bản. Nếu ta tách từ đó ra khỏi văn bản có thể học sinh sẽ không hiểu được nghĩa và do đó dẫn đến việc viết sai chính tả. VD: Khi đọc tiếng “cuốc” nếu không đặt nó trong mối quan hệ, cụm từ, câu thì rất khó xác định nghĩa để viết đúng. Nhưng nếu đặt nó trong câu: “Mẹ em vác cuốc ra đồng” hoặc trong từ “Tổ quốc” thì học sinh dễ dàng viết đúng. Bên cạnh đó muốn học sinh viết đúng giáo viên phải cho học sinh nắm được khả năng kết hợp của các kí hiệu từ trong các trường hợp sau: + Các con chữ phụ âm kết hợp với các con chữ nguyên âm để tạo nên phụ âm đơn như “gi”, “qu”. Con chữ phụ âm đi trước, con chữ nguyên âm đi sau. Trong thực tế chính tả, khi xuất hiện “q” thì nhất thiết sẽ có “u” đi kề liền. Đây là luật yêu cầu học sinh cần nắm vững. + Các con chữ phụ âm kết hợp với nhau để tạo nên phụ âm đơn. VD “ngh”, “ng”, “gh”, “tr”. Trong Tiếng Việt dùng 9 kí hiệu từ đơn: ph, th,ch, kh, nh, ng, gh, ngh, tr. Với hình thức chuỗi như vậy không bao giờ được phép kết chuỗi đảo ngược các thứ tự sắp xếp như rt, hn... + Các con chữ nguyên âm kết hợp với nhau để tạo nên một kí tự nguyên âm đôi. VD: iê, ia, ươ, uô, ua, uâ... Trong quá trình giảng dạy, tôi cung cấp kiến thức này cho các em. Tổng kết lại /V/ chỉ kết hợp các âm không tròn môi, không nên kết hợp với các nguyên âm tròn môi. Một điều rất quan trọng trong dạy chính tả cho học sinh vùng phương ngữ là dạy cho các em biết được một số mẹo luật chính tả. “Mẹo” được hiểu như cách làm độc đáo giúp học sinh phân biệt, ghi nhớ được cách viết đúng những chữ cái hay nhầm lẫn trong khi viết chính tả. Sự tìm ra các mẹo chính tả dựa vào: + Sự kết hợp: Trong cấu trúc âm tiết. + Sự láy âm, điệp âm. + Mẹo từ hán việt. + Mẹo nghĩa của từ. + Mẹo phân biệt l/n. - Mẹo 1: Một chữ ta không biết là l hay n, nhưng nó đứng đầu một từ láy âm, không phải là điệp âm thì dứt khoát là “l” chứ không phải “n”. VD: “l” láy với “c”: lò cò, la cà, lục cục... “l” láy với “b”: lệt bệt, lùng bùng, lõm bõm.. “l” láy với “d”: líu díu, lò dò... “l” láy với “h”: lúi húi, lay hoay... “l” láy với “n”: lơ mơ, liên miên... - Mẹo 2: Khả năng kết hợp âm: Âm /l/ đứng trước âm đệm nhưng /n/ không đứng trước âm đệm. Do đó /n/ không bao giờ đứng trước một vần bắt đầu: oa, uê, uy... trái lại /l/ lại đứng trước các vần đó như: loa, luân.. - Mẹo 3: mẹo luật láy âm, điệp âm. /l/ láy âm rất rộng rãi, trái lại /n/ không láy âm với một âm nào mà chỉ điệp âm với chính nó. Đồng thời lại không có hiện tượng /l/ láy âm với /n/. Từ đó suy ra quy tắc: Nếu gặp một từ láy mà hai âm đầu đọc giống nhau thì nhất định là một điệp âm đầu và cả hai chữ phải cùng có âm đầu là /l/ hoặc /n/. Vì vậy ta chỉ cần biết một chữ là đủ. VD: Lấp loáng, long lanh, lanh lảnh.... No nê, ninh ních, nõn nà... - Mẹo 4: Đối với trường hợp “l” và “n” đứng ở chữ thứ 2. Trong từ láy thì”n” khi láy âm chỉ láy với “gi” và không láy với âm nào khác. Trái lại “l” lại không láy với “gi” mà láy với các âm khác . (Ngoại lệ có: khúm núm, khệ nệ) kh – l : khéo léo, khoác lác... ch – l : cheo leo... /n/ láy với những âm tiết không có âm đầu như: ảo não, áy náy... - Mẹo 5: Những chữ không biết được “l” hay “n” nhưng đồng nghĩa với một từ khác viết với “nh” thì chữ ấy là “l”. VD: lăm le (nhăm nhe) lỡ làng (nhỡ nhàng) Trên đây là một số mẹo luật nhận diện chữ cái phân biệt l/n trong khi viết chính tả mà tôi nắm được để hướng dẫn các em viết chính tả. Ngoài ra còn một số mẹo phân biệt “ch” với “tr”, “s” với “x”. Những lỗi này học sinh lớp tôi cũng mắc phải nhưng ít hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp học sinh vẫn có thể mắc lỗi. Do vậy tôi cần nắm được để hướng dẫn cho các em. Chẳng hạn “tr” không đứng trước những chữ bắt đầu bằng âm đệm nhưng “ch” thì có.VD: ôm choàng, bị choáng... “tr” không bao giờ láy với “ch” và ngược lại. Do đó chỉ có những từ láy cùng láy âm “tr” hoặc “ch” như: Chăm chỉ, trâng tráo, trân trân... Hoặc phân biệt s/x như: Các từ chỉ tên thức ăn hoặc đồ dùng liên quan đến thức ăn thì viết là “x”. VD: Xôi, xào, xoong... Những từ chỉ thiên nhiên hoặc chỉ tên cây cối, các loại quả thì viết là “s” VD: Ngôi sao, giọt sương, sen, súng... Tuy nhiên tất cả những mẹo luật trên chỉ ở mức độ tương đối. Người giáo viên phải biết áp dụng linh hoạt để giảng dạy cho các em. * Một số điểm cần lưu ý khi dạy theo quy trình một tiết chính tả theo hướng đổi mới. - Bước “câu hỏi gợi ý tìm hiểu nội dung đoạn viết” là bước hiệu quả chính tả thấp. Vì nội dung hầu hết các em đã nắm được thông qua các bài tập đọc. Bước này không kéo dài sẽ lãng phí thời gian, tăng cường cho luyện tập (với những bài chính tả so sánh mà nội dung bài không có trong danh sách tập đọc thì giáo viên có thể hỏi qua về nội dung đoạn viết). - Bước “luyện viết chữ khó, phân biệt các cặp từ so sánh” và bước “luyện tập” có thể nhập làm thành một. Đây là bước quan trọng để giúp học sinh không mắc lỗi chính tả, giáo viên cần lưu ý. - Bước “chấm và chữa bài” nên đặt ở cuối cùng trong tiết học vì việc đánh giá kết quả học sinh phải đặt sau quá trình luyện tập. Để tiết dạy chính tả đạt kết quả cao, gây hứng thú trong học tập cho học sinh, tôi thường tổ chức hoạt động học dưới hình thức trò chơi như tìm nhanh các cặp từ so sánh đối lập, tìm những bài hát ở Tiểu học có phụ âm đầu là n/l. Mục đích cuối cùng của bài chính tả là phải ghi nhớ các trường hợp viết đúng một cách có ý thức mà trong đó thực chất của loại bài so sánh là: giúp học sinh nắm vững nội dung ngữ, nghĩa của từ gắn với chữ viết. Tôi so sánh để phân biệt những trường hợp dễ lẫn lộn cho các em. Soạn ra những bài luyện tập phù hợp với các em ở địa phương mình. Cho học sinh đặt câu với những từ dễ mắc lỗi hoặc có thể đưa ra những đoạn văn, đoạn thơ trong đó có nhiều từ viết sai chính tả để học sinh tự mình phát hiện lỗi, tìm hiểu nguyên nhân sai và chữa lại cho đúng. Qua việc tìm hiểu nguyên nhân là: tìm được những trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh lớp tôi. Qua một thời gian thực hiện, kết quả thu được như sau: Số TT Lớp T.số học sinh Các lỗi chính tả thường mắc l/n; ~/./ tr/ch; s/x; gh/g cấu trúc âm tiết 1 5B 22 1 em 1 em 1 Phần thứ ba KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC. Việc xác định các trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh vùng phương ngữ là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Chúng ta đang thực hiện luật phổ cập giáo dục Tiểu học để tạo nên một mặt bằng dân số, trình độ dân trí nhất định trong cả nước. Tuy nhiên trình độ này có đồng đều hay không điều đó tuỳ thuộc vào chất lượng giảng dạy và học tập ở mỗi địa phương. Là một giáo viên vùng phương ngữ, tôi nhận thấy phải trang bị cho các em những kiến thức chuẩn mực để các em có đầy đủ năng lực để học tiếp lên các lớp trên và giao tiếp với xã hội một cách tự tin, chững chạc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên giảng dạy ở các vùng phương ngữ. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành trong một thời gian ngắn mà cho ta kết quả tốt ngay được mà phải tiến hành trong một thời gian dài. II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN. Để chủ trương đổi mới phương pháp dạy học nói chung, việc dạy chính tả cho học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao hơn tôi có một số đề xuất như sau sau: - Đối với giáo viên Tiểu học: Phải kiên trì thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Cần nắm bắt rõ năng lực học tập của từng đối tượng học sinh để giảng dạy có hiệu quả. Tự học và tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ của bản thân góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. - Đối với học sinh. Các em học sinh phải thực hiện tốt bốn nhiệm vụ của học sinh, tích cực học tập và rèn luyện. Đánh giá của nhà trường. Eakly, ngày 24 tháng 03 năm 2009 Người viết Nguyễn Thị Lý

File đính kèm:

  • docSKKN Mon chinh ta.doc
Giáo án liên quan